vendredi 30 mai 2014

Trả lời phỏng vấn RFA về hiệu lực công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/bringing-cn-to-inter-court-on-scs-gm-05292014145545.html

Gia Minh: Ông không đồng ý với một số ý kiến cho rằng Công Hàm Phạm Văn Đồng năm 1958 là vô hiệu, vậy những điểm chính ông muốn nêu ra là gì?

Trương Nhân Tuấn: Công hàm 1958 có hiệu lực ràng buộc pháp lý hay không, theo tôi, là do quan điểm của nhà cầm quyền Việt Nam hôm nay về tư cách pháp nhân của thực thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong thời kỳ từ 1954 đến 1975.

Theo như lập trường của Việt Nam hôm nay, qua lời tuyên bố của các viên chức bộ ngoại giao phát biểu trong hôm họp báo vừa rồi, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa ngày trước là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền. Trên quan điểm này thì tôi cho rằng công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng có hiệu lực pháp lý ràng buộc.

Vì sao? Tại vì nếu Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là một quốc gia độc lập có chủ quyền, thì công hàm của ông Đồng là một tuyên bố đơn phương, nội dung nhìn nhận tuyên bố về chủ quyền và hải phận của Trung Quốc.

Để dễ hiểu, tôi lấy thì dụ về cái tuyên bố đơn phương về vùng “nhận diện phòng không của” Trung Quốc hôm 23 tháng 11 năm ngoái 2013. Tuyên bố này, một cách tổng quát, thì phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế. Nếu không có nước nào lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều khoản nào, thì tự động tuyên bố “vùng nhận diện phòng không” của Trung Quốc có hiệu lực. Ta thấy Nhật, Mỹ, Nam Hàn cùng nhiều nước khác đồng loạt lên tiếng phản đối. Các nước này phản đối vì chồng lấn vùng nhận diện phòng không của nước họ đã đặt ra từ trước, trong thời chiến tranh lạnh, mặt khác, còn có chồng lấn do tranh chấp chủ quyền giữa Nhật và Trung Quốc tại quần đảo Điếu Ngư. Các nước khác thì phản đối điều khoản mà trong đó Trung Quốc đe dọa sẽ sử dụng vũ lực nếu vùng “nhận diện phòng không” của họ bị xâm phạm. Những nước không lên tiếng, thì tôn trọng tuyên bố này. Mình thấy hôm nay, các hãng hàng không dân sự, kể cả của Nhật hay của Mỹ, cũng hải tôn trọng vùng trời của Trung Quốc.

Trở lại công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng. Ta biết tuyên bố của Trung Quốc về lãnh thổ và hải phận ngày 4-9-1958 là phù hợp với các công ước quốc tế vềBiển đã được một số nước ký kết vào tháng 4 cùng năm, trong đó có Trung Hoa Dân Quốc, tức Đài Loan hiện nay. Vì chính quyền Bắc Kinh không phải là đại diện nước Trung Hoa ở LHQ do đó tuyên bố của Trung Quốc là cần thiết. Tương tự như tuyên bố về “vùng nhận diện phòng không” vừa rồi, nếu không ai lên tiếng phản đối, thì tự động nó có hiệu lực.

Tức là, thay vì phản lên tiếng phản đối hay bảo lưu chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa lại lên tiếng ủng hộ nó.

Hiện nay, các viên chức cũng như học giả Việt Nam cố gắng bào chữa ràng công hàm 1958 của ông Đồng chỉ công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, chứ không công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa và Trường Sa. Những lý lẽ bào chữa này không hề thuyết phục. Giả sử rằng công hàm này không có hiện hữu, tức là ông Đồng chưa bao giờ ký công hàm này, thì thái độ im lặng của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trước tuyên bố đơn phương, công khai của Trung Quốc, được hiểu như là sự “im lặng đồng tình”.

Còn nếu quan niệm rằng, trong khoản 1954 và 1975 nước Việt Nam bị phân chia theo hiệp định Genève 1954 thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ.

Nội dung Hiệp định Genève xác nhận Việt Nam là nước độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có chủ quyền và thống nhất. Điều này được tái xác nhận theo Hiệp định Paris năm 1973.

Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận Việt Nam Cộng Hòa là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đại diện nước Việt Nam duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.

Trên tinh thần một nước Việt Nam “độc lập, có chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ” của các hiệp ước 1954 và 1973, thì bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa), nếu có làm tổn hại đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.

Quan điểm này phù hợp với thực tế lịch sử, thực tế pháp lý của hai miền Nam Bắc Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975. Và cũng là một quan điểm có lợi, vì Việt Nam gỡ bỏ được những hứa hẹn, những cam kết mà nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã thể hiện với nhà cầm quyền Trung Quốc trong quá khứ. Tôi vừa mới gởi một lá thư không niêm, gởi lên TT Nguyễn Tân Dũng với nội dung tương tự. Hy vọng Việt Nam kịp thời thay đổi lập trường của mình để có một tư thế mạnh hơn, nếu vấn đề tranh chấp được đưa ra một trọng tài quốc tế để phân xử.

Gia Minh: Theo ông biện pháp kiện Trung Quốc từ phía Việt Nam hiện nay cần tiến hành ra sao và kiện ra các tòa án nào?

Trương Nhân Tuấn: Trước hết là mình phải biết phía Trung Quốc họ bảo lưu ở LHQ các điều nào, từ đó mình mới biết Việt Nam có thể kiện ở các điều gì, sau đó là kiện ra tòa án nào.

Theo tôi biết, năm 2006 Trung Quốc có bảo lưu ở LHQ, là họ không chấp nhận bất kỳ thủ tục nào, qui định theo mục 2, Phần XV của Công ước, đối với tất cả các loại tranh chấp được ghi ở các khoản a), b) và c) của điều 298 của Công ước.

Tức là Trung Quốc không nhìn nhận thẩm quyền của Tòa liên quan các vụ tranh chấp chủ quyền, cũng không nhìn nhận trọng tài để phân định ranh giới trên biển.

Tức là, trong vụ giàn khoan 981, Việt Nam không thể kiện Trung Quốc ra Tòa về tranh chấp chủ quyền các đảo, cũng không thể kiện để nhờ phân định ranh giới biển, thí dụ giữa đảo Hải Nam và bờ biển Việt Nam. Điều duy nhất mà Việt Nam có thể kiện là về hiệu lực các đảo Hoàng Sa. Nhưng mà nếu Việt Nam đệ đơn kiện về điều này thì Việt Nam mặc nhiên nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi!

Gia Minh: Vụ kiện nếu Việt Nam tiến hành sẽ khác vụ kiện mà Philippines đang kiện Trung Quốc về tranh chấp lãnh hải ở khu vực Biển Đông ra sao?

Trương Nhân Tuấn: Thì nếu kiện, Việt Nam sẽ kiện tương tự như Philippines mà thôi. Có điều Việt Nam sẽ không có được tư thế thoải mái như là Philippines.

Philippines kiện Trung Quốc gồm 10 điều, nội dung đại khái: kiện về yêu sách đường 9 đoạn của Trung Quốc, về quyền chiếm hữu các cấu trúc địa lý lúc chìm lúc nổi ở trong hải phận của Philippines, về việc chiếm đóng và xây dựng trên các bãi lúc chìm lúc nổi, về hiệu lực của các bãi đá, về quyền tự do hàng hải…
Còn Việt Nam kiện, xem lại danh sách bảo lưu của Trung Quốc, nếu không lầm thì Việt Nam sẽ chỉ có thể kiện Trung Quốc về hiệu lực các đảo thuộc Hoàng Sa mà thôi. Ở đây là hiệu lực đảo Tri Tôn. Mà khi làm điều này, như đã nói, gián tiếp Việt Nam lại công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa rồi. Vì nếu quần đảo Hoàng Sa là của mình, thì mắc mớ gì mình đi kiện?

Mặt khác, khi kiện như vậy, Việt Nam cũng làm một cuộc phiêu lưu khác không kém phần nguy hiểm. Là vì Việt Nam cũng chủ trương các đảo Hoàng Sa có hiệu lực tối đa, theo như các bản đồ thấy trên báo chí thế giới hiện nay, hay theo một tuyên bố về hải phận của Việt Nam từ thập niên 80.

Thói thường thì mình đâu thể cấm người khác có chủ trương giống như mình? VN đã từng chủ trương các đảo có hiệu lực tối đa, thì bây giờ đâu thể nào kiện Trung Quốc khi Trung Quốc cũng chủ trương y như vậy được?

Vì thế tình hình Việt Nam hôm nay thật là tiến thoái lưỡng nan.

Vì thế để thoát ra khỏi tình thế này, nhà nước Việt Nam nên thực hành ý kiến của tôi vừa nói ở trên. Tức là tuyên bố Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, vì có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vì đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.

Sau đó, Tôi nghĩ rằng Việt Nam vẫn còn phương pháp để mà thoát ra khỏi cảnh khó khăn hôm nay.

Gia Minh: Ý kiến người dân trong nước và những cộng đồng người Việt ở nước ngoài sẽ có giá trị ra sao khi được đưa vào vụ kiện?

Trương Nhân Tuấn: Theo tôi, ý kiến của cộng đồng người Việt nước ngoài cũng như dư luận quốc tế sẽ ảnh hưởng đến thái độ của Trung Quốc. Cho dầu thế nào thì Trung Quốc cũng không thể bất chấp dư luận quốc tế, trong khi khu vực biển Đông là nơi vận chuyển hàng hóa khoảng 50% số lượng thế giới. Nếu khu vực bất ổn, kinh tế cả thế giới bị ảnh hưởng, chắc chắn các nước sẽ làm áp lực. Mình cũng thấy Mỹ và Nhật họ cũng ủng hộ Việt Nam, mặc dầu còn trong chừng mực, nhưng là điều tốt.

Theo tôi, việc đi kiện là thiên nan vạn nan, nhưng việc chuẩn bị đi kiện, khua chuông gióng trống lên cho mọi người biết mình đi kiện, sẽ tạo cho Việt Nam một tư thế chính đáng. Quan trọng là việc hóa giải công hàm 1958. Việc này tạo cho Việt Nam một tư thế thoải mái hơn về chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa. Việt Nam có thể có những hành động mạnh bạo hơn trong việc đáp trả những hành vi côn đồ của Trung Quốc, như đâm chìm tàu của Việt Nam. Và đó sẽ là hành động tự vệ chính đáng, được LHQ nhìn nhận.

Gia Minh: Cám ơn ông Trương Nhân Tuấn.


lundi 26 mai 2014

Thư mở kính gởi :Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng


Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ Ngoại Giao Phạm Bình Minh.

Kính thưa Thủ tướng, kính thưa Bộ trưởng,

Đầu tháng 5 năm 2014 Trung Quốc đã đặt giàn khoan Haiyang Shiyou 981 tại địa điểm cách đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa (của Việt Nam) khoảng 18 hải lý, cách đảo Lý Sơn (của Việt Nam) khoảng 119 hải lý. Việc này đã gây phẫn nộ cho mọi người Việt Nam, trong cũng như ngoài nước. Đó là một hành vi có thể ghép vào hạng mục xâm lược, không bằng vũ trang sức mạnh, mà bằng một thủ đoạn tinh vi bao bọc dưới lớp vỏ khai thác dầu khí.

Các nỗ lực của nhà nước Việt Nam hôm nay, quốc tế và quốc nội, tố giác hành vi xâm lược này đồng thời khẳng định trước quốc tế tư cách (tự vệ) chính đáng của VN. Điều này được mọi tầng lớp người Việt Nam ủng hộ.

Đảo Lý Sơn, một đảo cận bờ thuộc chủ quyền của Việt Nam. Đảo Tri Tôn là một cấu trúc địa lý thuộc quần đảo Hoàng Sa mà quần đảo này đã thuộc về VN từ thời xa xưa. Những nhà cầm quyền VN, liên tục qua các triều đại vua chúa, nhà cầm quyền khác nhau, đã khám phá, khai thác, quản lý và tuyên bố chủ quyền trên các đảo này mà không hề gặp bất kỳ một chống đối, hay phản đối nào của các triều đại, hay nhà cầm quyền Trung Quốc, cho đến sau Thế chiến thứ II.

Do hoàn cảnh lịch sử, nước Việt Nam bị phân chia thành hai vùng lãnh thổ tại vĩ tuyến 17, lần lượt mang tên : Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa.

Chiếu theo tinh thần Hiệp định Genève 1954 (được các nước Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô, TQ bảo trợ), các nước công nhận chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ VN. Vĩ tuyến 17 là đường ranh quân sự tạm thời, không phải là đường phân định biên giới về chính trị hay lãnh thổ. 

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, do ở phía nam vĩ tuyến 17, do đó thuộc quyền quản lý của VNCH.
Vấn đề chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam được tái xác định theo Hiệp định Paris năm 1973 : « Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam như Hiệp định Genève 1954 về Việt Nam đã công nhận. »

Tinh thần hai hiệp định, cũng là một chân lý làm nên chất keo gắn bó nhân dân và đất nước VN : đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…

Điều này thể hiện lên thực tế. Trong khoảng thời gian từ 1954 đến 1973, không có bất kỳ quốc gia nào trên thế giới nhìn nhận sự hiện hữu của hai quốc gia Việt Nam. Khối Tư bản nhìn nhận VNCH là đại diện của nước Việt Nam duy nhất. Khối XHCN công nhận VNDCCH là đại diện nước VN duy nhất. Nước này nhìn nhận phía này thì không nhìn nhận phía kia, hay ngược lại.

Thưa Thủ tướng, thưa bộ trưởng,

Trên tinh thần tôn trọng « độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam » của các hiệp ước quốc tế này (mà các nước Mỹ, Trung Quốc, Anh, Pháp… đồng bảo trợ chúng), bất kỳ các tuyên bố, các hành vi đơn phương của một bên (VNCH hay VNDCCH), nếu có làm tổn hại, hay đe dọa  đến việc toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chúng đều không có giá trị.

Nhà cầm quyền Trung Quốc viện dẫn công hàm của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết nhằm ủng hộ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc tháng 9 năm 1958, cho rằng nhà nước VNDCCH đã nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc tại Hoàng Sa (và Trường Sa).

Điều này hiển nhiên không đúng

Công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng viết trong khoản thời gian 1954-1973, có liên quan đến chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đi ngược lại tinh thần hai Hiệp định 1954 và 1973, do đó không có giá trị pháp lý ràng buộc.

Dầu vậy, những ngày vừa qua, trong các cuộc họp báo, các viên chức của Việt Nam, thuộc Bộ Ngoại Giao vì muốn phản biện lại lý lẽ của Trung Quốc (khi vịn vào công hàm 1958 của TT Phạm Văn Đồng), đã có những tuyên bố bất lợi. Các tuyên bố này có thể làm tổn hại đến quyền lợi của dân tộc Việt Nam, đến sự vẹn toàn lãnh thổ của đất nước Việt Nam, đồng thời khép mọi khả năng đòi lại Hoàng Sa (và các đảo TS) đã lọt vào tay Trung Quốc của thế hệ tương lai.

Những người này, nhân các cuộc họp báo, có cho rằng « Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, có chủ quyền… »…  hoặc « bạn không thể cho ai thứ mà bạn không có chủ quyền… »

Lập luận cho rằng « Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia độc lập, có chủ quyền… », từ miệng một viên chức cao cấp thuộc bộ ngoại giao, có thể vô hiệu hóa yếu tố nền tảng của quốc gia Việt Nam được xác định do hai hiệp định 1954 và 1973 : « độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam ».
Lập luận cho rằng « bạn không thể cho ai thứ mà bạn không có chủ quyền… », từ miệng một viên chức cao cấp thuộc bộ ngoại giao, mặc nhiên nhìn nhận VNDCCH chưa bao giờ có chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa.

Lập luận thứ nhất sẽ khép lại mọi khả năng đòi lại Hoàng Sa của các thế hệ Việt Nam trong tương lai bằng thủ tục pháp lý.

Lập luận thứ hai sẽ đóng lại mọi khả năng kiện tụng của VN hôm nay (là nhà nước tiếp nối nhà nước VNDCCH).

Vì các lẽ này, tôi trân trọng yêu cầu :

Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng,

Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng bộ Ngoại Giao Phạm Bình Minh,

Nhanh chóng có biện pháp đính chánh, hay sửa chữa lại các phát ngôn thiếu dè dặt và sự chín chắn của các viên chức bộ Ngoại giao trong buổi họp báo vừa qua.

Tôi trân trọng cám ơn.

Pháp quốc, Ngày 26 tháng 5 năm 2014

Trương Nhân Tuấn. ( truongnhantuan@yahoo.fr )


Nhà nghiên cứu nghiệp dư về lịch sử và tranh chấp biên giới Việt-Trung

dimanche 25 mai 2014

Vấn đề xây dựng chiến lược pháp lý.

Một số học giả VN (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), do ý muốn hóa giải công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, chủ trương trong khoản thời gian 1954-1975, hai thực thể chính trị Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa là hai quốc gia độc lập, có chủ quyền.

Đây là một lập luận rất sai về mặt thực tế lịch sử, cũng là một lựa chọn hết sức vụng về trên phương diện pháp lý chiến lược, nó có thể không chỉ làm cho VN mất vĩnh viễn chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa, mà còn bị đe dọa mất Trường Sa.

Khi nhìn nhận  VNDCCH và VNCH là hai « quốc gia » độc lập có chủ quyền được quốc tế nhìn nhận, thì công cuộc « giải phóng đất nước » của phía VNDCCH, thể hiện chính thức từ 1959 đến 1975, chỉ là một nỗ lực sát nhập lãnh thổ của quốc gia VNCH vào quốc gia VNDCCH.

Phía VNDCCH chiến thắng, Quốc gia VNCH giải thể. Lãnh thổ (và của cải – tích sản và tiêu sản) của « quốc gia » VNCH được sáp nhập đơn thuần vào VNDCCH. Không hiện hữu việc chuyển giao quyền lực nhà nước, cũng không hiện hữu việc kế thừa. Quốc gia VN hiện nay (CHXHCNVN) là quốc gia tiếp nối của quốc gia VNDCCH (vì có chung quốc kỳ, quốc ca, cùng một đảng lãnh đạo...). Như vậy trên phương diện quốc tế công pháp, VN không thể chối bỏ những cam kết, những hành vi đã thể hiện trước quốc tế, nhất là đối với Trung quốc, của VNDCCH trước kia.

Hoàng Sa bị Trung Quốc cưỡng chiếm trên tay « quốc gia » VNCH, dưới sự im lặng (đồng tình) của bên thứ ba là « quốc gia » VNDCCH. Quốc gia CHXHCNVN hôm nay (hoàn toàn xa lạ với VNCH) không có tư cách nào để kiện TQ về chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.

Tức là, vì muốn « hóa giải » hiệu lực công hàm 1958, các học giả (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông) đã đưa VN vào ngõ cụt về pháp lý.

Sai lầm chiến lược vì giải pháp này chặt bỏ mọi khả năng lấy lại Hoàng Sa (bằng các phương pháp hòa bình, kể cả pháp lý) của các thế hệ VN tương lai.

Sai lầm về thực tế lịch sử, vì hai thực thể chính trị VNDCCH và VNCH không hề là hai « quốc gia ». Hai thực thể này chưa hề có tư cách pháp nhân « quốc gia », không có bên nào có ghế đại diện tại Liên Hiệp Quốc. Dân chúng hai miền chưa bao giờ thể hiện ý muốn ly khai thành một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Hiến pháp hai miền đều khẳng định lãnh thổ của nước Việt Nam trải dài từ Nam Quan đến mũi Cà Mau (hay từ Lạng Sơn đến Cà Mau).

Thực tế lịch sử này, (cũng là một điều may mắn cho dân tộc Việt Nam), hai miền nam và bắc VN chưa bao giờ là « đối tượng » của quốc tế công pháp.

Nếu VNDCCH và VNCH là hai quốc gia, như sự lựa chọn của các học giả VN, các hành vi, các tuyên bố của VNDCCH trước quốc tế, từ 1954 đến 1975, sẽ là một vấn đề thuộc phạm vi « quốc tế ». Công hàm 1958 vì vậy trở thành một vấn đề thuộc công pháp quốc tế. Dĩ nhiên nước VNDCCH sẽ là nước thứ ba, không liên can gì đến việc tranh chấp HS và TS giữa TQ và nước VNCH.

Hồ sơ pháp lý về Hoàng Sa và Trường Sa của VN coi như khóa sổ.

Thực tế lịch sử là từ 1954 đến 1975, VNDCCH và VNCH không hề là « quốc gia », theo định nghĩa của Quốc tế Công pháp.

Hai vùng lãnh thổ Nam và Bắc Việt Nam đều thuộc vào một quốc gia có tên gọi là Việt Nam, chỉ bị phân chia tạm thời theo Hiệp định Genève 1954. Điều này được khẳng định qua Hiệp định Paris năm 1973.
Theo thuật ngữ « quốc tế công pháp », Việt Nam trong thời kỳ 1954-1975 là một quốc gia bị phân chia.
Có một số trường hợp các quốc gia bị phân chia, tương tự trường hợp quốc gia Việt Nam, đó là Nam, Bắc Hàn và Đông, Tây Đức.

Theo định nghĩa, quốc gia bị phân chia (état divisé) là quốc gia, lúc trước khi bị phân chia đã là một « quốc gia – Etat », được cộng đồng quốc tế nhìn nhận, và lập trường chính trị chung của các bên (sau khi bị phân chia) là mong muốn thống nhất lại đất nước trong tương lai. Đường ranh phân chia chỉ có giá trị tạm thời, không được nhìn nhận là đường biên giới.

Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia, thành hình từ rất lâu, đã tuyên bố độc lập từ thế kỷ thứ X. Hiệp định Genève 1954 phân chia VN bằng vĩ tuyến 17 thành hai vùng lãnh thổ. Đường phân chia này chỉ có giá trị tạm thời (nhằm về tập kết quân sự). Cũng theo qui định của Hiệp định này, việc thống nhất VN sẽ thể hiện bằng một cuộc bầu cử, trễ nhất là năm 1956. Việc bầu cử, do nhiều lý do, đã không diễn ra. Hai miền, từ những năm của thập niên 60, trên thực tế đã hành sử như là « quốc gia ». Nhưng lập trường chính trị của hai bên vẫn là ý muốn thống nhất lại đất nước. Cả hai miền đều quyết định không gia nhập Liên hiệp quốc.

Như vậy Việt Nam là một quốc gia bị phân chia (état divisé – divided country), tương tự trường hợp của Đại Hàn và Đức, ý muốn của họ là trong tương lai thống nhất lại đất nước.

(Trường hợp Ấn Độ và Pakistan, hoặc Pakistan và Bangladesh, cũng là các nước bị phân chia nhưng tình trạng pháp lý của các quốc gia này hoàn toàn khác với Việt Nam. Sau khi được Anh trả độc lập, đã quyết định phân chia đất nước thành hai vùng lãnh thổ và việc phân chia có tính cách vĩnh viễn. Hai vùng lãnh thổ trở thành hai quốc gia : Ấn Độ và Pakistan, với một đường biên giới được xác định và cả hai đều gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trường hợp Bangladesh ly khai khỏi Pakistan để trở thành một quốc gia độc lập, được quốc tế nhìn nhận. Các trường hợp phân chia này hoàn toàn khác với tình trạng của quốc gia Việt Nam.)
Điều cần nói, Hoa Kỳ cũng đã từng nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia « tạm thời bị phân chia, giống như trường hợp của Đại Hàn và Đức ». Việc này trình bày trong « Biên bản ghi nhớ » của bộ Ngoại giao ngày 4-3-1966. Sau đó Hoa Kỳ cũng nhìn nhận và tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam theo tinh thần Hiệp định Paris 1973, lập lại nội dung Hiệp định Genève 1954. Tức nhìn nhận VN là một quốc gia duy nhất.

Điều đáng ghi nhận khác, liên tục nhiều năm, cho đến năm 1960, nhà cầm quyền miền Bắc vẫn còn lên tiếng, vào tháng 7, yêu cầu miền Nam tuân thủ hiệp định Genève, trưng cầu dân ý thống nhất đất nước.
Tức là các bên (VNDCCH, VNCH, Mỹ và các nước ký tên cũng như bảo trợ các hiệp ước 1954 và 1973) nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia duy nhất, ý chí của các bên là « thống nhất đất nước ».

Nếu chấp nhận thực tế này, (và chấp nhận giải pháp pháp lý này), công hàm 1958 chỉ là vấn đề « nội bộ » của quốc gia chứ không phải thuộc « công pháp quốc tế ».

Vấn đề thuộc « nội bộ quốc gia » thì sẽ được giải quyết bằng « luật lệ quốc gia ». Nếu thuộc phạm vi « quốc tế » thì sẽ phải giải quyết bằng « công pháp quốc tế ».

Sự lựa chọn của các học giả VN (Quỹ Nghiên cứu Biển Đông), và có thể là lập trường của VN hôm nay, như thế là sụp vào « bẫy » của phía Trung Quốc.

TQ chỉ công nhận thực thể VNDCCH là đại diện chính thức của quốc gia Việt Nam (và không công nhận VNCH), đồng thời luôn quan niệm công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là một văn bản giữa « quốc gia với quốc gia », tức có giá trị quốc tế.

Khi đứng ra cãi « tay đôi » với TQ về nội dung và hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng là sai rồi !
Lý ra phải lập luận, các bên VNDCCH, VNCH và Mỹ (và các nước ký tên hoặc bảo trợ các hiệp ước 1954 và 1973, trong đó có Trung Quốc), phải nhìn nhận nội dung các hiệp ước : hai bên VNDCCH và VNCH là hai thực thể chính trị thuộc về một nước Việt Nam duy nhất. Chưa bên nào (VNDCCH hay VNCH) được nhìn nhận là « quốc gia », là đại diện cho Việt Nam tại LHQ. Do đó không bên nào là « đối tượng » của công pháp quốc tế. Bất kỳ tuyên bố của các bên liên quan đến sự toàn vẹn lãnh thổ của VN (trên tinh thần các hiệp định 1954 và 1973 mà các bên ký nhận) đều không có hiệu lực.

Tức là, VNDCCH chỉ là một bên của quốc gia Việt Nam. Mọi tuyên bố, mọi hành vi liên quan đến vẹn toàn lãnh thổ đất nước Việt Nam của thực thể này, như công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng, đều không có giá trị.

Nhưng hồ sơ pháp lý của VN đến đây chỉ mới có « cái nền ». Còn phải xây dựng lên đây nhiều thứ. Điều phải quyết tâm là phải xây dựng bằng một ý chí xuyên suốt « quyền lợi đất nước và dân tộc là trên hết », chứ không phải vì quyền lợi đảng phái, vì tiếng tăm, vì « sổ lương hay sổ hưu »...


samedi 24 mai 2014

Về lập luận « Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có chủ quyền ».

Lập luận này thường được dẫn đi dẫn lại ở các bài viết của hầu hết các học giả VN, mục đích nhằm « hóa giải » hiệu lực công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đây cũng là lập trường chính thức của VN hôm nay : Việt Nam bị chia hai theo Hiệp định Genève 1954 và quần đảo Hoàng Sa do VNCH quản lý. Công hàm 1958 không hề nói đến vấn đề chủ quyền mà chỉ nhìn nhận hải phận 12 hải lý của TQ. Hoàng Sa và Trường Sa do VNCH quản lý, « bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu ».

Tạm chấp nhận rằng lập luận của VN là thuyết phục, công hàm 1958 không có hiệu lực về việc nhìn nhận lãnh thổ. Tức là Việt Nam « im lặng » trước tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc về lãnh thổ : « Tây Sa và Nam Sa thuộc Trung Quốc ».

Như đã phân tích tiểu đoạn trước, thái độ « im lặng » của VN, theo quan niệm của quốc tế công pháp, được hiểu như là sự « đồng ý mặc định – consentement tacite » trước đòi hỏi của phía Trung Quốc. 

Nội dung Tuyên bố của Trung Quốc rõ ràng, không có điều gì « nhập nhằng » có thể đem lại hiểu lầm. Mặc khác, tranh chấp quần đảo Hoàng Sa giữa Trung Quốc và nhà nước bảo hộ Pháp (đại diện triều đình Việt Nam), bắt đầu từ năm 1909. Nhà nước bảo hộ Pháp đã hai lần thách thức TQ giải quyết việc tranh chấp bằng một trọng tài quốc tế, cả hai lần TQ đều từ chối. Lãnh đạo VNDCCH không thể không biết các việc này. Tức là, nhà nước VNDCCH không thể vịn vào lý do « nội dung nhập nhằng »  hay « không biết » để biện hộ cho thái độ của mình.

Cùng với một loạt những hành vi khác của phía VNDCCH, tuần tự xảy ra trong khoảng thời gian từ 1958-1975, đã củng cố yếu tố « acquiescement », tức sự đồng thuận của Việt Nam trước những đòi hỏi về lãnh thổ của Trung Quốc.

Tức là công hàm 1958 (có đề cập hay không đề cập vấn đề chủ quyền lãnh thổ), thì VN cũng đã phạm nguyên tắc  « đồng thuận – acquiescement », nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.

Về ý kiến « Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có chủ quyền » lặp đi lặp lại trong các bài viết của các học giả VN, hay câu « bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu » của bộ Ngoại giao VN hôm nay, cũng cần nói lại cho rõ.

Nguyên thủy câu này dẫn từ học giả Monique Chemillier-Gendreau, trong tập tài liệu « La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys ». Nguyên văn lẽ ra phải viết đầy đủ như sau :

« Dans ce contexte, les déclarations ou pris de position éventuelles des autorités du Nord-Vietnam sont sans conséquences sur le titre de souveraineté. Il ne s’agit pas du gouvernement territorialement compétent à l’égard des archipels. On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité[i] ».

Tạm dịch : trong bối cảnh đó, những tuyên bố hay lập trường nào đó của nhà cầm quyền miền Bắc thì không ảnh hưởng lên danh nghĩa chủ quyền. Nhà nước này không phải là nhà nước có thẩm quyền về lãnh thổ đối với các quần đảo. Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm quyền.

Đó là câu « On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité - Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm quyền ».

Người ta không thể « trích ngang » một « ý » trong một « nguồn ý », rồi diễn giải sao cho phù hợp sở nguyện của mình. Ý nghĩa của câu này không thể tách rời « nguồn ý », đến từ « bối cảnh » mà tác giả cố gắng diễn đạt.

Các học giả VN « vắn tắt » bớt, người sau trích dẫn người trước, không kiểm chứng lại nguồn, tự động suy diễn ý nghĩa theo sở thích của mình.

Người đầu tiên sử dụng lý lẽ này có lẽ là ông Từ Đặng Minh Thu, qua bài viết ở đây. Tác giả này dịch đoạn văn trên như sau :

“Trong những điều kiện này, những lời tuyên bố hoặc lập trường nào đó của chính quyền miền Bắc Việt Nam không có hiệu lực gì đối với chủ quyền. Đây không phải là chính quyền có thẩm quyền trên quần đảo này. Người ta không thể chuyển nhượng những gì người ta không kiểm soát được…”

Tác giả dịch « Dans ce contexte – bối cảnh này » thành « trong những điều kiện này ». Theo tôi là không phù hợp. Vấn đề cần tìm hiểu : bối cảnh đó là bối cảnh nào ?

Bối cảnh đó là học giả Monique Chemillier-Gendreau phản biện ông L. Thomas Bradford, trong « The Spratly Island Imbroglio : a tangled web of conflict”; Ông này cho rằng, qua công hàm Phạm Văn Đồng, “Vietnam réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois sur les archipels » - « Việc Nam tái xác nhận sự công nhận của họ về chủ quyền của Trung Quốc ở các quần đảo ».

Một số lập luận của bà Monique Chemillier-Gendreau nhằm mục đính phủ nhận ý kiến của Thomas Bradford (cho rằng VN bị Estoppel) : Không thể diễn giải Công hàm 1958 như là « tái xác nhận việc công nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS ».

« Estoppel » là « bối cảnh » của câu văn.

Cái vài dòng sau đoạn văn dẫn trên, học giả Monique Chemillier-Gendreau viết :

« Néanmoins, son silence devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.[ii] »

Tạm dịch : « dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân. »

Đoạn văn này Bà học giả cho thấy (sự im lặng của VN về HS và TS trong công hàm Phạm Văn Đồng) có thể khiến VN bị vướng vào bẫy « acquiescement », như phân tích ở tiểu đoạn trước.

Tức là câu « On ne peut renoncer à ce sur quoi on n’a pas d’autorité - Người ta không thể từ bỏ về cái mà người ta không có thẩm quyền » có thể đúng trong trường hợp « estoppel », nhưng có thể không đúng trong các trường hợp khác, thí dụ trường hợp « acquiescement ».
Các học giả VN, chỉ dựa vào câu « Người ta không thể từ bỏ lãnh thổ mà người ta 
không có thẩm quyền », từ đó kết luận công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị ràng buộc. Điều này hiển nhiên thiếu thận trọng.



[i] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 123.
[ii] Monique Chemillier-Gendreau, sdd, tr 123.

jeudi 22 mai 2014

Nếu công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng không hiện hữu...

Các viên chức nhà nước CSVN thường hay nói rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng là « vũ khí tuyên truyền » của Trung Quốc. Thực ra điều này chỉ có thể thuyết phục được các học giả trong nước. Vì không có điều kiện tiếp cận thông tin, hoặc do áp lực của « sổ lương » hay « sổ hưu », do đó các học giả VN dễ dãi tin theo. Trong lúc các tác phẩm của các học giả, những nhà nghiên cứu quốc tế… những người thân VN thì cho rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng đã làm yếu đi hồ sơ chủ quyền của VN tại HS và TS. Có người trung dung, không thân phe nào, cho rằng VN đã bị « estopped – forclusion », tức bị mất tố quyền. Phía Trung Quốc, mới đây cũng lên tiếng rằng VN đã bị « Estoppel » nhưng không biết là vào trường hợp nào ?. Theo người viết thì công hàm 1958 đã khiến VN bị mắc vào trường hợp « estoppel par acquiescement - estoppel by acquiscence ».

(Ý nghĩa của thật từ luật học « Estoppel » là thế nào, lý ra phải cần một nhà luật học giàu kinh nghiệm, để có thể giảng nghĩa nói rõ rệt về các « trường phái » Estoppel trên thế giới. Chưa thấy có học giả người Việt nào nói về Estoppel một cách đầy đủ và thuyết phục. Thật đáng tiếc).

Tiểu đoạn này thử đặt giả sử rằng công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng không hề hiện hữu. Ông Phạm Văn Đồng chưa bao giờ ký, và nhà nước VNDCCH chưa bao giờ ra tuyên bố bất kỳ liên quan lãnh thổ và hải phận của Trung Quốc.

Câu hỏi đặt ra là chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa có bị mất vào Trung Quốc hay không ?

Học giả Monique Chemillier-Gendreau, sau khi phản bác ý kiến một số học giả quốc tế cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng khiến VN bị vướng nguyên tắc « estoppel », đã có ý kiến về việc này  :

« Néanmoins, son silence devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan.[i] »
Tạm dịch : « dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân. »

Thế nào là « sự đồng thuận – acquiescement » và hiệu lực pháp lý của nó như thế nào ?

« l’Acquiescement » được định nghĩa là « thuật ngữ thuộc quá trình tố tụng chỉ định hành vi qua đó một bên tranh chấp, một cách minh thị hay mặc thị, vô điều kiện hay có điều kiện, chấp nhận một nghĩa vụ hay một yêu cầu của bên kia. »

Theo tập quán quốc tế, (thể hiện qua các án lệ của các tòa án quốc tế), ít khi nào một bên bị mắc « acquiescement » chỉ vì một dấu hiệu (ưng thuận) đơn lẻ nào đó. Một « sự đồng thuận – acquiescement » luôn là sự kết tinh của một quá trình logic, một tập hợp những « dấu hiệu » thể hiện trong một thời gian lâu dài, từ đó cấu thành một « lập trường » (một thái độ) của một bên.
Ý kiến của học giả Monique Chemillier-Gendreau, trong bối cảnh phản bác ý nghĩa VN bị ràng buộc theo nguyên tắc « estoppel », như đã thấy trong câu dẫn trên, VN đã thể hiện một loạt các hành vi có thể cấu thành yếu tố « đồng thuận ».

Sau khi Trung Quốc ra tuyên bố đơn phương về lãnh thổ và hải phận ngày 4 tháng 9 năm 1958 (Tuyên bố này có hình thức « décision[ii] - quyết định » hơn là hình thức « notification[iii] »). Theo tập quán quốc tế, các nước nếu công nhận lập trường này, sẽ gởi công hàm trả lời mang hình thức « reconnaissance[iv] – công nhận ». Trường hợp không đồng ý thì gởi công hàm « phản đối – protestation[v] ».

Giả sử rằng phía VN « im lặng », không bày tỏ bất kỳ một hành vi nào liên quan đến tuyên bố của Trung Quốc. (Tức giả sử rằng công hàm Phạm Văn Đồng không hiện hữu).

Theo tập quán quốc tế, thái độ « im lặng » này sẽ được hiểu là sự « đồng ý ám thị - consentement tacite ».

Thí dụ trường hợp Trung quốc ra tuyên bố về vùng « Nhận diện phòng không » ngày 23-11-2013. Tuyên bố này phù hợp với công pháp quốc tế.
Điều 1 của Công ước Chicago 1944 qui định vùng bầu trời phía trên lãnh thổ, lãnh hải và vùng tiếp cận lãnh hải của một quốc gia thì thuộc chủ quyền của quốc gia đó. Tức là trong vòm trời đó, quốc gia có đầy đủ thẩm quyền quốc gia đối với người hay các phương tiện qua lại. 

Một quốc gia bất kỳ nếu không lên tiếng phản đối, hay bảo lưu một điều nào đó trong tuyên bố (như chồng lấn vùng không gian, không chấp nhận việc đe dọa sử dụng vũ lực – theo điều 3 của Tuyên bố...) thì tuyên bố này tự động có hiệu lực.

Thì thái độ « im lặng » của VN sau khi TQ tuyên bố về lãnh thổ và hải phận của họ năm 1958, có nghĩa là sự « đồng ý ám thị », một hình thức thụ động của nguyên tắc « acquiescement ».

Một số hành vi khác củng cố thái độ « đồng thuận » của VN (về chủ quyền của TQ tại HS), điều này học giả Monique Chemillier-Gendreau đã nhắc tới. Đó là các bài viết trên báo Nhân Dân vào thập niên 60 nhìn nhận vùng biển Hoàng Sa (mà Đệ thất hạm đội của Mỹ đang hoạt động) thuộc về TQ. Hoặc các bản đồ do Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1960 (trên đó quần đảo Nam Sa – tức Trường Sa - được đánh dấu là lãnh thổ Trung Quốc). Hay bản đồ do Cục Bản đồ Việt Nam xuất bản năm 1972, trong đó quần đảo Nam Sa được chú thích bằng tiếng Hoa, chứ không phải bằng tiếng Việt, tiếng Anh hay tiếng Pháp.

Thái độ khác, quan trọng hơn cả là sự « im lặng » của VNDCCH vào tháng giêng năm 1974 khi Trung quốc dùng vũ lực xâm lăng Hoàng Sa của VN.
Hành vi xâm lăng của TS đòi hỏi các bên Việt Nam phải có một thái độ dứt khoát. Phía VNCH đã có hành động quyết liệt, sử dụng quyền « tự vệ chính đáng » để bảo vệ lãnh thổ bằng vũ lực, sau đó bằng những tuyên bố tố cáo hành vi TQ trước cộng đồng quốc tế. Các hành vi này đã khẳng định chủ quyền của VN tại Hoàng Sa cũng như vùng biển chung quanh.

Sự im lặng của VNDCCH được hiểu là « đồng ý ám thị » hành vi của Trung quốc là chính đáng. Mặt khác, các bên VNDCCH và MTGPMN từ chối ký tên vào bản tuyên bố phản đối TQ do phía VNCH đề nghị.

Các điều này kết tinh, đồng thời củng cố, yếu tố « acquiescement - đồng thuận » của VN về các đòi hỏi về danh nghĩa chủ quyền của TQ tại HS và TS.
Các án lệ, kết quả phán quyết dựa trên thái độ « đồng thuận – acquiescement » của một bên có rất nhiều. Các trường hợp nổi tiếng như phán quyết của Trọng tài Max Huber trong vụ tranh chấp các đảo Palmas (l'acquiescement de l'Espagne) năm 1934. Vụ tranh chấp lãnh thổ giữa Bỉ và Hòa Lan (CIJ 20 juin 1959). Tranh chấp Thái-Miên về ngôi đền Préah-Vihéar (CIJ 15 juin 1962). Vụ Barcelona, phán quyết CIJ ngày 24-7-1964. Hay phán quyết ngày 22-12-1965 tranh chấp Pháp-Hoa Kỳ...

Tức là, có hay không có công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, hoặc là công hàm này có hiệu lực hay không có hiệu lực, các tranh cãi của các học giả VN sẽ không làm thay đổi cốt lõi của vấn đề : VNDCCH đã nhìn nhận những đòi hỏi về chủ quyền của TQ tại HS và TS.

Tức là, người đã nằm trong quan tài và nắp áo quan đã đóng lại. Tranh cãi về công hàm Phạm Văn Đồng tương tự việc có cần đóng đinh hay không đóng đinh nắp quan tài.

Vấn đề đáng lẽ phải là : có ai kiểm soát rằng người trong hòm có thật sự chết hay chưa ? Hay là có phương pháp nào để cứu sống người trong hòm hay không ?

Một thực tế pháp lý cần phải được phản biện bằng các lý lẽ, chứng cứ pháp lý, chứ không thể phản biện bằng những lý lẽ sai (do bóp méo dữ kiện lịch sử, pháp lý) hay bằng thái độ đà điểu. 

Phải nhìn nhận thực tế « pháp lý » này để « mở đường » khác cho VN hầu thoát khỏi bế tắc do giàn khoan 981 đem lại trên thềm lục địa VN. 

Và đó là vấn đề mà người viết sẽ trình bày trong bài sắp tới.




[i] Monique Chemillier-Gendreau, sdd, tr 123.
[ii] Nguyen Quoc Dinh, Patrick Daillier, Mathias Forteau, Alain Pellet - Doit International Public, L.G.D.J, 8e Edition, đoạn 242, tr 405
[iii] Doit International Public , sdd, đoạn 242, tr 405.
[iv] Doit International Public , sdd, đoạn 237, tr 396.
[v] Doit International Public , sdd, đoạn 237, tr 396-397.

mercredi 21 mai 2014

Công hàm 1958 : một vấn đề thuộc phạm vi công pháp quốc tế.

Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc là một tuyên bố đơn phương về lãnh thổ và hải phận. Tuyên bố này tương tự như tuyên bố đơn phương ngày 23-11-2013 của Trung Quốc về « vùng nhận diện phòng không – ADIZ » ở vùng biển hoa Đông. Tuyên bố 1958 dựa trên các công ước về Luật Biển 1958 (điều chỉnh lại năm 1996 theo Luật Biển 1982) trong khi Tuyên bố về ADIZ thì dựa theo tập quán quốc tế đã có từ sau Thế chiến II.

Tuyên bố gồm 4 điều, nội dung phần quan trọng tóm lược như sau :

Điều 1 : Lãnh hải của TQ rộng 12 hải lý. Điều này áp dụng trên toàn bộ lãnh thổ TQ, các hải đảo Đài Loan và các đảo phụ thuộc, đảo Bành Hồ và các đảo phụ thuộc, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa)…
Điều 3 : Tất cả phi cơ, thuyền bè không được phép của TQ thì không được xâm phạm vào không và hải phận của nước TQ.
Điều 4 : Nguyên tắc qui định ở điều 3 (và 2) được áp dụng cho cả HS và TS.

Tuyên bố 4-9-1958 của Trung Quốc ghi rõ Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) thuộc về TQ (điểm 1).
Theo thông lệ quốc tế, các tuyên bố đơn phương có hiệu lực pháp lý ràng buộc cho các nước quan hệ, nếu các nước này không kịp thời lên tiếng phản đối hay bảo lưu (về một khoản nào đó). Trường hợp Tuyên bố « Vùng nhận diện phòng không » của TQ ngày 23-11-2013, các nước Nhật, Nam Hàn, Mỹ, cùng nhiều nước khác… đã tức thì lên tiếng phản đối. Một lẽ vì nó chồng lấn lên vùng nhận diện phòng không của Nhật và Nam Hàn đã thiết lập từ lâu, trong thời kỳ chiến tranh lạnh, sau đó vi phạm chủ quyền lãnh thổ của hai nước này.

Ngày 10 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gởi công hàm (công hàm 1958) ủng hộ tuyên bố của TQ nguyên văn như sau :

« Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. »

Tuyên bố này là một công khai, đơn phương « ủng hộ » : Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa « tán thành » đồng thời cam kết « tôn trọng quyết định » của  Trung Quốc.

Nhiều tranh cãi chung quanh nội dung (và hình thức) và tính ràng buộc pháp lý của  công hàm 1958. Nó « tán thành » việc gì và « tôn trọng » cái gì ? Ông Đồng có tư cách hay không để ra một tuyên bố về lãnh thổ ? V.V…

Sau đây một số ý kiến của tác giả về nội dung công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Tác giả quan niệm rằng, khi nào ta biết sự thật về giá trị và hiệu lực của công hàm này, khi đó ta mới có thể hóa giải nó. Vấn đề hóa giải thế nào, nội dung sẽ trình bày trong bài viết tiếp theo.

1/ Công hàm 1958 là một « tuyên bố đơn phương » :

Nhiều người gọi « công hàm » 1958 của Phạm Văn Đồng là « lá thư » của ông Đồng gởi cho ông Chu Ân Lai [1]. Thực ra việc gọi thế nào không quan trọng, mà quan trọng là trên quan điểm quốc tế công pháp văn bản này có hiệu lực pháp lý hay không ?

Khoản 1 của Nguyên tắc Hướng dẫn về Tuyên bố Đơn phương của Quốc gia được  Ủy ban Công pháp Quốc tế thuộc LHQ [2] thông qua (từ nay gọi tắt là Nguyên tắc Hướng dẫn) có nội dung :

Des déclarations formulées publiquement et manifestant la volonté de s’engager peuvent avoir pour effet de créer des obligations juridiques. Lorsque les conditions pour qu’il en soit ainsi sont réunies, le caractère obligatoire de telles déclarations repose sur la bonne foi; les États intéressés peuvent donc en tenir compte et tabler sur elles; ils sont fondés à exiger que de telles obligations soient respectées.

Tạm dịch : Những tuyên bố phát biểu một cách công khai và bày tỏ ý muốn tôn trọng (những gì đã tuyên bố) có thể có tác dụng tạo ra các nghĩa vụ pháp lý. Khi các điều kiện được hội đủ, tính cách ràng buộc của các tuyên bố này được dựa vào sự thành tín. Quốc gia liên hệ có thể xem xét và dựa vào tuyên bố này làm căn cứ, để đòi hỏi các nghĩa vụ đó phải được tôn trọng.

Khoản 5 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn :

5. Les déclarations unilatérales peuvent être formulées par écrit ou oralement.

Tạm dịch : Các tuyên bố đơn phương có thể phát biểu bằng chữ viết hay bằng lời nói.

Lá thư, hay « công hàm » của ông Đồng đã thể hiện một cách công khai, có đăng tải trên báo chí hai nước Việt-Trung và được lưu trữ trong hồ sơ ở LHQ. Nó là một « tuyên bố đơn phương ». Nội dung tuyên bố này là « ghi nhận và tán thành » tuyên bố về hải phận của nước CHNDTH.

Khoản 2 của Nguyên tắc Hướng dẫn :

2. Tout État a la capacité d’assumer des obligations juridiques par des déclarations unilatérales.

Tạm dịch : Mọi quốc gia đều có khả năng đảm nhận những ràng buộc pháp lý qua các tuyên bố đơn phương.
Trên phương diện quốc tế công pháp, quốc gia gọi là VNDCCH có thể bị ràng buộc do tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đông. Vấn đề cần tìm hiểu là bị « ràng buộc » về những điều gì ?

2/ Công hàm không có hiệu lực vì người ký không có tư cách pháp nhân

Nhiều bài báo, nhiều ý kiến đóng góp về công hàm 1958 thường hay nói đến tư cách pháp nhân của ông Phạm Văn Đồng. Các ý kiến này cho rằng ông Đồng không có tư cách để ra một tuyên bố liên quan đến vấn đề lãnh thổ.

TS Nguyễn Hồng Thao, trong cuốn « Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông[3] » nói về việc này như sau :

La note de Pham Van Dong ne contient aucune renonciation explicite de la souveraineté sur les deux archipels au profit de la Chine. La portée de cette note n’a pas non plus la valeur obligatoire de renoncer à une souveraineté. En vertu de ses fonctions, un Premier Ministre n’a pas la compétence de céder le territoire. Cela relève au pouvoir de l’Assemblée Nationale de Viet Nam

Tạm dịch : Lá thư của Phạm Văn Đồng không hề nói đến việc từ bỏ chủ quyền ở hai quần đảo cho TQ. Hiệu lực của lá thư này cũng không có giá trị bắt buộc ở việc từ bỏ chủ quyền. Theo chức năng của ông này, một thủ tướng không có thẩm quyền để nhượng lãnh thổ. Đây là thẩm quyền thuộc về Quốc hội.

Về hiệu lực của công hàm 1958 sẽ nói ở dưới. Về tư cách pháp nhân, ý kiến này không phù hợp với quan điểm Quốc tế Công pháp. Thật vậy, điều 4[4] của Nguyên tắc Hướng dẫn, những viên chức nhà nước như Chủ tịch nước, Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao… là những người có tư cách để ra một tuyên bố. Nguyên văn điều 4 :

4. Une déclaration unilatérale n’engage internationalement l’État que si elle émane d’ une autorité ayant compétence à cette fin. En vertu de leurs fonctions, les chefs d’État, les chefs de gouvernement et les ministres des affaires étrangères sont habilités à formuler de telles déclarations. D’autres personnes représentant l’État dans des domaines déterminés peuvent être autorisées à engager celui-ci, par leurs déclarations, dans les matières relevant de leur compétence.

Tạm dịch như sau : một tuyên bố đơn phương chỉ ràng buộc quốc gia (vào các vấn đề thuộc phạm vi) quốc tế khi tuyên bố này phát xuất từ một quan chức nhà nước có thẩm quyền trong phạm vi đó. Với chức năng của họ, chủ tịch nước, thủ tướng và bộ trưởng bộ ngoại giao (là những người) có quyền để thành lập một tuyên bố như vậy. Các cá nhân khác đại diện cho quốc gia trong những lãnh vực nhứt định có thể được phép gắn kết (quốc gia vào các vấn đề thuộc lãnh vực quốc tế), qua tuyên bố của họ, trong các vấn đề thuộc thẩm quyền của họ.

Theo tinh thần điều 4 văn bản hướng dẫn này, ông Phạm Văn Đồng là thủ tướng chính phủ nước VNDCCH, dĩ nhiên có tư cách và đầy đủ thẩm quyền để ra một tuyên bố về một vấn đề thuộc phạm vi quốc tế.

Thí dụ dẫn từ hồ sơ CIJ về tư cách pháp nhân của người ra tuyên bố.

Trường hợp tranh chấp[5] giữa Mã Lai và Singapour về các đảo Pedra Branca (tên Mã Lai là Pulau Batu Puteh), Middle Rocks và South Ledge (quan trọng hơn cả là đảo Pedra Branca). Nội vụ được đưa ra Tóa án Công lý Quốc tế (CIJ) vào tháng 2 năm 2003 và được phân xử ngày 23 tháng 5 năm 2005.

Trước tòa, theo các chứng cớ lịch sử, Mã Lai đã chứng minh được chủ quyền lịch sử của mình ở đảo Pedra Branca, từ thời mới lập quốc (vương quốc Johor, thế kỷ  15) cho tới năm 1850. Trong khi Singapour, được tiểu vương Johor nhượng cho Công ty Đông Ấn thuộc Anh vào ngày 02 tháng 8 năm 1824, lãnh thổ bao gồm tất cả các đảo trong vòng 10 hải lý. Trong khi đó đảo Pedra Branca cách Singapour đến 24 hải lý. Nhưng trong một khoảng thời gian dài, từ năm 1850, vương quốc Johor (quốc gia tiền nhiệm Mã Lai) đã không hành sử chủ quyền của họ tại đảo này. Khi người Anh ở Singapour cho xây một ngọn hải đăng trên đảo năm 1850 thì không gặp sự phản đối nào của vương quốc Johor. Mặt khác, nhân dịp trả lời lá thư của Singapour về chủ quyền đảo Pedra Branca năm 1953, viên Bộ trưởng lâm thời Bộ ngoại giao vương quốc Johor viết công hàm xác nhận đảo Pedra Branca « không thuộc chủ quyền Johor ». Mặc dầu phía Mã Lai phản đối rằng viên bộ trưởng kia không có thẩm quyền để tuyên bố về một vấn đề « lãnh thổ ». Nhưng tòa đã bác lý lẽ này vì cho rằng tuyên bố đó không có ý nghĩa của một tuyên bố về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của vương quốc Johor về chủ quyền đảo Pedra Branca.

Công hàm 1953 của vương quốc Johor tương tự với trường hợp công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng. Đó không phải là một kết ước về lãnh thổ mà chỉ là ý kiến của nước VNDCCH về quyết định của nước CHNDTH (về lãnh thổ và hải phận của TQ). Công hàm 1958 không hề là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền. Tranh chấp Hoàng Sa bắt đầu từ năm 1909, khi Trung Quốc lên tiếng đòi chủ quyền quần đảo. Lãnh đạo VNDCCH không thể không biết điều này.

(Ở thí dụ này ta cũng thấy một nước, do thái độ của chính phủ nước này, có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở một vùng lãnh thổ nào đó. Trường hợp VN và TQ tại hai quần đảo HS và TS, ta dễ dàng chứng minh VN có chủ quyền lịch sử tại hai quần đảo này, thông qua các tấm bản đồ, hay các sử liệu lịch sử, do chính từ TQ thành lập. Nhưng nếu trong một thời gian dài, nhà nước VN có những tuyên bố, hay các động thái tương đương với sự « đồng thuận – acquiescement », các hành vi này được xem là tự nguyện « từ bỏ chủ quyền », VN có thể bị mất chủ quyền lịch sử ở các nơi này. Điều này có ý nói rằng vấn đề chủ quyền lịch sử là quan trọng nhưng thái độ của nhà nước đối với vùng lãnh thổ đó còn quan trọng hơn.)

Ta cũng có thể dẫn từ các bản án mẫu của CIJ về các tuyên bố đơn phương mà vai trò của người tuyên bố, cũng như hoàn cảnh của tuyên bố bị đặt lại, nhưng vẫn không thể hủy bỏ hiệu lực của tuyên bố.

Trường hợp quốc vương Jordanie tuyên bố từ bỏ vùng lãnh thổ Cisjordanie là một thí dụ khác. Ngày 31 tháng 7 năm 1988 quốc vương Jordanie đọc tuyên bố trước thần dân của ông về việc từ bỏ mọi liên hệ và thẩm quyền chính thức của Jordanie trên vùng lãnh thổ Cisjordanie. Tuyên bố này trái với tinh thần hiến pháp của Jordanie, vì nhà vua không có thẩm quyền quyết định về phạm vi lãnh thổ. Tuyên bố của quốc vương Jordanie không hề nhắm đến một quốc gia nào (không phải là tuyên bố đơn phương) đồng thời vừa vi hiến. Dầu vậy hiệu lực của tuyên bố cũng đã được áp dụng trên thực tế, dân tộc Palestine chưa được thực sự độc lập cũng như quốc gia Palestine chưa được chính thức thành hình, nhưng vùng lãnh thổ Cisjordanie thực sự không còn thuộc thẩm quyền của Jordanie.

3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì vi hiến.

Nhiều bài báo, nhiều ý kiến ở VN gần đây cho rằng chiếu theo hiến pháp VN, ông Đồng không có tư cách để tuyên bố về một vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ. Thật vậy, theo hiến pháp của VN hiện tại, hay trong thời kỳ ông Đồng làm thủ tướng, vấn đề phân định biên giới phải được thể hiện bằng một kết ước, có sự đồng thuận giữa hai nước, phải được quốc hội thông qua. Ý kiến của TS Nguyễn Hồng Thao đã dẫn ở trên trong chừng mực cũng nằm trong chiều hướng này.

Nhưng tuyên bố 1958 của ông Đồng không phải là một « tuyên bố về lãnh thổ », có mục tiêu làm thay đổi lãnh thổ nước VNDCCH.

Xét nội dung của cả hai bản tuyên bố. Bản tuyên bố của TQ trước hết là một tuyên bố về chủ quyền, theo đó TQ khẳng định ý chí của họ về chủ quyền của TQ tại Đài Loan, Bành Hồ… (đang dưới quyền kiểm soát của phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo). Sau đó là tuyên bố về hệ thống đường cơ bản và bề rộng lãnh hải 12 hải lý (điều 2). Điều 3 khẳng định quyền tài phán của TQ tại vùng không gian và vùng nước thuộc lãnh hải TQ. Điều 4 qui định các đảo Tây Sa và Nam Sa (tức HS và TS) cùng các đảo khác của TQ đều có qui chế xác định ở điều 1 và điều 2.

Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng là tuyên bố ủng hộ tuyên bố của TQ về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải của nước này. Thực ra việc làm này không cần thiết. Bởi vì, cũng như tuyên bố của các nước khác, nếu nội dung tuyên bố của TQ không có điều gì phải phản đối, tự động tuyên bố này có hiệu lực đối với tất cả các nước trên thế giới. (Tuyên bố của TQ bị Hoa Kỳ phản đối vì hệ thống đường cơ bản lấn biển khá xa).
Trường hợp Tuyên bố vùng nhận diện phòng không của Trung Quốc vừa qua cho ta thấy việc này.

Tức là, có hay không có tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng, nếu VN không lên tiếng phản đối hay bảo lưu về một điều gì đó liên quan đến nội dung tuyên bố của TQ, tự động tuyên bố này có hiệu lực pháp lý.
Tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không phải là một tuyên bố về « lãnh thổ » mà là một tuyên bố về « lập trường » của VNDCCH đối với những đòi hỏi của TQ về lãnh thổ và hải phận. Vì vậy tuyên bố này không vi hiến.

Dầu vậy, theo tập quán quốc tế, một tuyên bố đơn phương nếu đi ngược lại tinh thần hiến pháp của quốc gia tuyên bố, hiệu lực của tuyên bố vẫn có thể cao hơn hiến pháp của quốc gia. Tuyên bố đơn phương không phải là một văn bản « hành chánh » thuộc phạm trù quốc gia mà là một văn bản (hay hành vi) thuộc phạm trù quốc tế. Một văn bản hành chánh chịu chi phối của luật quốc gia nhưng một tuyên bố đơn phương (liên quan đến một vấn đề quốc tế) chịu chi phối của luật pháp quốc tế.

Thí dụ sau đây cho thấy những rắc rối đưa đến từ việc mâu thuẩn giữa luật quốc nội và luật quốc tế về tuyên bố đơn phương.

Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela về lập trường của Colombie về chủ quyền quần đảo Los Monjes[6]. Công hàm này xác định chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes.

Năm 1971, Ủy ban Quốc gia Colombie nhận được một khiếu nại cho rằng công hàm 1952 vi hiến vì các vấn đề thuộc chủ quyền lãnh thổ phải được thể hiện bằng một hiệp ước, và phải được quốc hội thông qua. Thực tế là công hàm của Bộ ngoại giao có làm thay đổi « biên giới » nước Colombie, vì trực tiếp nhìn nhận quần đảo Los Monjes thuộc Venezuela. Tháng 3 năm 1971 Ủy ban Quốc Gia Colombie phán xét rằng Ủy ban không có thẩm quyền để hủy bỏ công hàm 1952 bởi vì đây là một văn bản thuộc phạm vi quốc tế. Một văn bản quốc tế thì phải áp dụng Quốc tế Công pháp. Tháng 4 năm 1971, phán quyết này lại khiếu nại lên Ủy ban Quốc Gia. Lần này lý lẽ phía khiếu nại cho rằng phán quyết không phù hợp với hiến pháp Colombie trong các vấn đề liên quan đến các văn bản quốc tế. Bên khiếu nại nhấn mạnh, để tuyên bố có hiệu lực, ý chí của hai quốc gia cần phải được thể hiện. Tức là, quan điểm của hiến pháp Colombie thì không công nhận hiệu lực các tuyên bố đơn phương mà chỉ nhìn nhận các hết ước có tính qui ước (có sự đồng thuận của hai bên).

Điều ghi nhận ở đây, khác với hiến pháp của phần lớn các quốc gia khác, hiến pháp Colombie không nhìn nhận « tuyên bố đơn phương » là một văn bản quốc tế. Một văn bản quốc tế, theo họ, phải có sự đồng thuận của hai bên. Trong trường hợp chủ quyền quần đảo Los Monjes, phải xác định bằng một hiệp định.
Vấn đề quần đảo Los Monjes được đưa lên Ủy ban Hiến Pháp quyết định. Ủy ban này cũng từ khuớc vì cho rằng không có thẩm quyền (23-5-1975). Cuối cùng, ngày 20-10-1992, Ủy ban Quốc gia phán quyết : Công hàm ngày 22 tháng 11 năm 1952 của bộ trưởng bộ Ngoại giao Colombie gởi bộ Ngoại giao Venezuela là không có gia trị.

Nhưng dường như hành động của Ủy ban Quốc gia Colombie chỉ nhắm đến việc giải quyết trong nội bộ Colombie, để xoa dịu thành phần chống đối. Vì trên thực tế, hiện nay nhà nước Colombie công nhận chủ quyền của Venezuela tại quần đảo Los Monjes qua việc phân định hải phận giữa hai nước. Việc tranh chấp hai bên là vùng nước chung quanh Los Monjes, phía Colombie chủ trương các đảo này có hiệu lực giới hạn trong khi phía Venezuela đòi hỏi vùng biển phía ngoài các đảo, có đầy đủ hiệu lực.

3/ Công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế.

Có ý kiến cho rằng công hàm 1958 không có hiệu lực vì tuyên bố của phía TQ vi phạm luật quốc tế. Ý kiến này cho rằng tuyên bố của TQ vi phạm luật quốc tế vì hệ thống đường cơ bản của TQ không phù hợp với Luật quốc tế về Biển 1958.

Theo khoản 8 bản Nguyên tắc Hướng dẫn :

 8. Une déclaration unilatérale en conflit avec une norme impérative du droit international général est nulle.

Tạm dịch : Một tuyên bố đơn phương mâu thuẩn với một nguyên tắc bắt buộc của luật quốc tế thì nó không có giá trị.

Nếu tuyên bố này mâu thuẩn với luật Quốc tế thì tuyên bố này không có giá trị. Dĩ nhiên công hàm 1958 cũng không có giá trị.

Ta thấy qui ước về đường cơ bản trong Công ước về Lãnh hải và Vùng tiếp giáp 1958 không khác nhiều nội dung bộ Luật biển 1982. Hệ thống đường cơ bản của TQ từ năm 1958 đến nay không thay đổi. Trong chừng mực, một số đoạn trong hệ thống đường cơ bản của TQ khá xa bờ, nhưng việc lấy các đảo cận biển để làm điểm cơ bản thì việc này không mâu thuẩn với Luật quốc tế về Biển. Tập quán này đã được rất nhiều nước trên thế giới sử dụng (kể cả VN). Tuyên bố về đường cơ bản của TQ bị các nước (như Hoa Kỳ) phản đối. Nhưng nói rằng nó không có giá trị trên toàn bộ là không thuyết phục. Bởi vì, nếu bị chống đối, TQ (hay VN cũng như các nước có chung trường hợp), có thể sửa đổi để phù hợp với Luật biển 1982.

Vì thế khi cho rằng tuyên bố 1958 của ông Phạm Văn Đồng không có giá trị vì ủng hộ một tuyên bố vi phạm luật quốc tế là không có căn cứ.

4/ Nội dung Công hàm 1958 :

Đây mới là điều quan trọng. VN có thể bị ràng buộc pháp lý ở các điểm nào trong nội dung bản tuyên bố 1958 ?

Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn :

7. Une déclaration unilatérale n’entraîne d’obligations pour l’État qui l’a formulée que si elle a un objet clair et précis. En cas de doute sur la portée des engagements résultant d’une telle déclaration, ceux-ci doivent être interprétés restrictivement. Pour interpréter le contenu des engagements en question, il est tenu compte en priorité du texte de la déclaration ainsi que du contexte et des circonstances dans lesquelles elle a été formulée.

Tạm dịch : Một tuyên bố đơn phương chỉ có khả năng ràng buộc quốc gia (đã phát biểu) khi nội dung (của bản tuyên bố) có một mục đích rõ ràng và cụ thể. Trong trường hợp có nghi ngờ về mức độ cam kết của tuyên bố, thì văn bản phải được giải thích một cách hạn chế. Để giải thích nội dung của những cam kết này, ta phải đặt ưu tiên cho văn bản của tuyên bố cũng như bối cảnh và trường hợp mà tuyên bố được thể hiện.
Bà Monique Chemillier-Gendreau [7] giới hạn hiệu lực của công hàm 1958 ở « bề rộng lãnh hải ». Bà viết như sau :

« La déclaration de Pham Van Dong se tient strictement, il est vrai, à la reconnaissance de la largeur de la mer territoriale chinoise. Il est donc inexact de soutenir que le Viet Nam aurait ainsi « réaffirmé sa reconnaissance de la prétention chinois » sur les archipels  ».

Tạm dịch : Tuyên bố của ông Phạm Văn Đồng chỉ hạn chế ở việc nhìn nhận bề rộng lãnh hải của Trung Quốc. Cho rằng Việt Nam « tái xác định việc công nhận chủ quyền của Trung Quốc » ở các quần đảo là điều không đúng.

TS Nguyễn Hồng Thao[8] cũng có cái nhìn tương tự, công hàm chỉ nhằm mục đích công nhận lãnh hải 12 hải lý. Ông cũng cho rằng công hàm có giá trị về chính trị hơn là pháp lý :

La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer territoriale.

Tạm dịch : Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.

Ông Lưu Văn Lợi[9] cũng viết tương tự :

« Xem nguyên văn bức thư của ông Phạm Văn Đồng người ta thấy bức thư chỉ có một nội dung là ủng hộ Trung Quốc quy định hải phận rộng 12 hải lý và hứa sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phải tôn trọng quy định 12 hải lý.
Nội dung đó không hề nói đến vấn đề lãnh thổ, càng không nói gì đến vấn đề các quần đảo. Nội dung chỉ có thế, sao lại xuyên tạc là “sự công nhận” Hoàng Sa là của Trung Quốc? »

Trong bài phỏng vấn tiến sĩ Balazs Szalontai của BBC[10], ta cũng tìm thấy ý nghĩa khá giống như vậy :

Dẫu vậy, ông (Phạm Văn Đồng) có vẻ đủ thận trọng để đưa ra một tuyên bố ủng hộ nguyên tắc rằng Trung Quốc có chủ quyền đối với hải phận 12 hải lý dọc lãnh thổ của họ, nhưng tránh đưa ra định nghĩa về lãnh thổ này. Mặc dù tuyên bố trước đó của Trung Quốc rất cụ thể, nhắc đến toàn bộ các đảo bao gồm Trường Sa và Hoàng Sa mà Bắc Kinh nói họ có chủ quyền, thì tuyên bố của Bắc Việt không nói chữ nào về lãnh hải cụ thể được áp dụng với quy tắc này.

Chiếu theo tinh thần khoản 7 của Nguyên tắc Hướng dẫn, nếu nội dung văn bản không rõ rệt (việc nhà nước VNDCCH sẽ “ghi nhận và tán thành” cái gì) thì việc diễn giải nội dung tuyên bố này phải giải thích một các hạn chế. Đó là điều mà quí vị Monique Chemillier-Gendreau, Nguyễn Hồng Thao, Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai đã diễn giải.

Nhưng văn bản có hai đoạn văn : Đoạn 1 « ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc ». Đoạn 2 : chỉ thị cho các cơ quan nhà nước triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.

Các vị này chỉ nói về đoạn văn thứ hai mà không xem xét đoạn văn thứ nhứt của công hàm 1958.
Nội dung của tuyên bố 4-9-1958 về hải phận của TQ là một tuyên bố khẳng định chủ quyền về lãnh thổ.
« Ghi nhận » và « tán thành » ở đây có nghĩa là VNDCCH tán thành quyết định của TQ mở rộng lãnh hải 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ trong danh sách mà TQ đã liệt kê trong Tuyên bố. « Triệt để tôn trọng » là VNDCCH tôn trọng « triệt để tôn trọng » quyết định lãnh hải 12 hải lý trên các vùng lãnh thổ của TQ có liệt kê trong bản tuyên bố. Trong đó bao gồm Hoàng Sa và Trường Sa.

Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm 1958, đã có ý kiến về công hàm này. Nhà báo Frank Ching trong bài “Paracel Islands Dispute[11]” trên Far Eastern Economic Review ngày 10-02-1994 ghi lại lời của Phạm Văn Đồng về nguyên nhân và nội dung công hàm 1958. Ông Đồng nói ngắn gọn, nhưng rõ rệt  :

"Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy".

Cũng trong bài báo của Frank Ching nói trên, có ghi lại lời ông Nguyễn Mạnh Cầm  :

"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam. Hơn nữa, Việt Nam đã phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới. Đồng thời, tình hữu nghị Hoa-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau. Trung Quốc đã cho Việt Nam một sự ủng hộ rất vĩ đại và giúp đỡ vô giá. Trong tinh thần đó và bắt nguồn từ những đòi hỏi khẩn cấp nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc.”

Như thế công hàm 1958 không phải chỉ “ủng hộ” bề rộng lãnh hải 12 hải lý như bà Monique Chemillier-Gendreau,TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai đã nói. Những người trong cuộc, ông Phạm Văn Đồng và ông Nguyễn Mạnh Cầm, đã nhìn nhận nội dung công hàm 1958 là công nhận chủ quyền của TQ ở HS và TS. Ông Phạm Văn Đồng biện hộ “nói vậy” vì lúc đó là “thời kỳ chiến tranh”. Ông Cầm thì biện hộ vì HS và TS thuộc miền Nam quản lý, việc ủng hộ là “cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập và tự do cho tổ quốc”.

Nội dung công hàm 1958 sẽ rõ rệt hơn, nếu quí vị học giả Monique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi hay tiến sĩ Balazs Szalontai xem xét thái độ của VNDCCH từ năm 1954 cho đến năm 1975 về hai quần đảo HS và TS. Ta sẽ tìm thấy nhiều bằng chứng nhà nước VNDCCH tôn trọng nội dung công hàm 1958. Trường hợp các bản đồ in sau 1958 một số có ghi HS và TS dưới tên Tây Sa và Nam Sa đồng thời ghi chú thuộc TQ. Hay các bài báo đăng trên báo Nhân Dân, xác định vùng biển, vùng trời HS thuộc TQ v.v… Các động thái này cho thấy chính phủ VNDCCH nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS[12]. Và đó cũng là mục đích của công hàm 1958.

Mặt khác, bà Monique Chemillier-Gendreau có viết[13] :

« Néanmoins, son silence devant l’affirmation de souveraineté chinoise sur les iles peut être interprété comme un acquiescement, et cela autant plus qu’il est renforcé par la déclaration relative aux zones de combat et les articles du Nhan Dan. »

Tạm dịch : dầu vậy, sự im lặng (của nhà nước VNDCCH) trước sự khẳng định chủ quyền của Trung Hoa tại các đảo có thể được hiểu như là một sự đồng thuận. Việc này càng được củng cố qua các tuyên bố liên quan đến vùng chiến sự và những bài viết trên báo Nhân Dân.

Tuy đoạn văn này nối liền với đoạn văn dẫn trên của học giả Monique Chemillier-Gendreau nhưng không thấy học giả VN nào nói tới.

Thử xét thêm lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm. Vì HS và TS do VNCH quản lý do đó công hàm 1958 không hiệu lực. Ở điểm này, học giả Monique Chemillier-Gendreau cũng có cái nhìn tương tự: “người ta không thể cho cái mà người ta không có”.

Tuy nhiên, theo nội dung Hiệp định Genève 1954, nước Việt Nam là duy nhứt[14]. Trên thực tế, VN có hai vùng lãnh thổ do hai chính phủ khác nhau về ý thức hệ lãnh đạo, nhưng trên quan điểm luật pháp quốc tế nước VN chỉ có một. Ông Cầm không thể viện dẫn việc HS và TS do VNCH quản lý thì có thể tuyên bố chủ quyền các quần đảo này của nước nào cũng được. Bởi vì, HS và TS thuộc bên nào quản lý thì chúng cũng thuộc về một nước Việt Nam duy nhứt. Khi chủ trương một quốc gia duy nhứt, hai nhà nước lãnh đạo hai vùng lãnh thổ khác biệt, đều có bổn phận như nhau trong việc bảo toàn lãnh thổ, cho dù phần lãnh thổ này do bên này hay do bên kia quản lý.
Mặt khác, lời giải thích của ông Nguyễn Mạnh Cầm, cũng như của ông Đồng, đã xóa bỏ lập luận “công hàm chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói đến vấn đề chủ quyền” của các học giảMonique Chemillier-Gendreau, TS Nguyễn Hồng Thao, ông Lưu Văn Lợi và tiến sĩ Balazs Szalontai về nội dung công hàm 1958. Nội dung công hàm bao gồm việc nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.

Học giả Greg Austin[15], trong cuốn China Ocean’s Frontiers, có ý kiến :

Of all the items of evidence presented by the PRC as proof of DRV recognition of Chinese sovereignty over the Paracel Islands, the most conclusive may be the note from the DRV Prime Minister supporting the PRC territorial sea declaration. The note was a government to government communication. And its subject was territorial sovereignty over, inter alia, the Paracel Islands; and the DRV not only raised no objection to the PRC claim but supported it.

Tạm dịch: Trong tất cả các yếu tố do TQ đưa ra làm bằng chứng cho việc VNDCCH đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc trên Quần đảo Hoàng Sa, yếu tố có tính thuyết phục nhứt có thể nói là công hàm của Thủ Tướng VNDCCH ủng hộ tuyên bố về lãnh hải của nước CHND TH. Công hàm này là một văn kiện trao đổi giữa chính phủ với chính phủ. Chủ đề của công hàm là chủ quyền lãnh thổ, trong đó có Quần đảo Hoàng Sa. Nước VNDCCH không những đã không phản kháng tuyên bố chủ quyền của CHND TH mà còn ủng hộ nó.

5/ Về hoàn cảnh ra đời công hàm 1958:

Hầu như các bài viết của các học giả VN đều vịn vào lý do “chiến tranh”, lý do căng thẳng eo biển Đài Loan ở thời kỳ đó, lý do hai nước VN và TQ là “đồng chí, anh em” trong khối xã hội chủ nghĩa,… để biện hộ cho sự xuất hiện công hàm 1958. TS Nguyễn Hồng Thao, trong sách đã dẫn[16], viết:

La note de Pham Van Dong a pour but de satisfaire une demande de la Chine aux pays du camps socialiste en vue de la soutenir dans sa lutte contre la politique poursuivie par des Américains dans le détroit de Formose, qui menaçait la sécurité nationale à l’époque. La note exprimant un engagement plus politique que juridique, une forme courante utilisée par des pays socialistes pour manifester leur solidarité idéologique. Elle a pour objet précis de soutenir les Chinois dans l’application de la largeur des 12 milles marins de la mer territoriale.

Tạm dịch : Lá thư của Phạm Văn Đồng có mục đích nhằm thỏa mãn việc yêu cầu, nhắm đến các nước trong khối XHCN, nhằm ủng hộ TQ trong cuộc đấu tranh chống lại khuynh hướng chính trị theo đuổi của Hoa Kỳ ở eo biển Đài Loan, thời kỳ đó đã đe dọa an ninh quốc gia nước này. Lá thư biểu lộ một sự liên kết về chính trị hơn là pháp lý, một hình thức thông dụng đã được các nước trong khối XHCN sử dụng để bày tỏ tình đoàn kết ý thức hệ. Lá thư có mục tiêu rõ rệt ủng hộ TQ trong việc áp dụng bề rộng lãnh hải 12 hải lý.
Trang web BBC[17] có tóm lược bài viết của “nhóm phóng viên biển Đông” đăng trên tờ Đại Đoàn Kết, nội dung như sau:

bối cảnh của bản Công hàm 1958 gửi Thủ tướng Chu Ân Lai của Trung Quốc là thời điểm "có nhiều chuyển biến phức tạp và cấp bách đối với Trung Quốc về tình hình lãnh thổ trên biển theo luật pháp quốc tế cũng như diễn biến căng thẳng của vấn đề quân sự xung quanh eo biển Đài Loan".
Trong bối cảnh đó, bản công hàm được giải thích là "đơn giản chỉ là một cử chỉ ngoại giao tốt đẹp", tức "chỉ là những tuyên bố mang tính chính trị và ngoại giao chứ hoàn toàn không có ý nghĩa pháp lý".

Trên VOA[18], có bài phỏng vấn TS Hoàng Việt :

trước hết là về bối cảnh đưa ra công hàm mà năm 1958 ông Phạm Văn Đồng đã ký. Thứ nhất là lúc đó quan hệ Việt Nam-Trung Quốc vẫn còn như là anh em, vừa là đồng chí vừa là anh em. Năm 1949, Quân Giải phóng Việt Nam còn tấn công và chiếm vùng Trúc Sơn thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, sau đó trao trả lại cho Trung Quốc. Thế rồi sang năm 1957 Trung Quốc chiếm lại từ tay một số lực lượng khác đảo Bạch Long Vĩ và sau đó đã trao trả lại cho Việt Nam. 
Muốn nói tới câu chuyện đó để làm gì? Đấy là lúc đó hai nước tình cảm rất là chặt chẽ với nhau.

Đã ghi ở trên, ông Đồng giải thích bối cảnh ra đời công hàm :

"Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy".

Lời giải thích này đã xóa đi tất cả những lý lẽ « vì hoàn cảnh » mà các học giả đưa ra để cố gắng hóa giải hiệu lực công hàm 1958. Bởi vì ai gây chiến tranh ? Dĩ nhiên là phía VNDCCH. Chiến tranh không phải là tình huống bắt buộc. Chỉ cần phía VNDCCH ngưng chiến tranh thì ông Đồng sẽ không phải « nói như vậy ». Tức đã không ký công hàm, đã không nhượng trên giấy tờ chủ quyền HS và TS cho TQ.

Nhà báo Frank Ching[19] nhận xét lời giải thích này như sau :

  Vậy thì ai đã tạo ra cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền Nam, ngay cả việc bán đất ? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ thừa cho chiến tranh.

Trong khi bối cảnh thực sự mà tuyên bố của TQ ra đời, theo TS Balazs Szalontai :

BBC:Theo nhận định của ông, lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã được viết trong hoàn cảnh nào?
Tiến sĩ Balazs Szalontai: Trước tiên, ta nói về tuyên bố của Trung Quốc. Nó ra đời trong bối cảnh có Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1956 và các hiệp định được ký sau đó năm 1958. Lẽ dễ hiểu, Trung Quốc, mặc dù không phải là thành viên của Liên Hiệp Quốc, cũng muốn có tiếng nói về cách giải quyết những vấn đề đó. Vì lẽ đó ta có tuyên bố của Trung Quốc tháng Chín 1958.

Điều này tác giả cũng đã nói ở phần trên, đây mới là bối cảnh đúng đắng về hoàn cảnh ra đời bản tuyên bố của TQ. Sau khi Hội nghị của LHQ về Biển ngày 29-4-1958 thông qua bốn Công ước [20] gồm : Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải, Công ước về đại dương, Công ước về đánh bắt và bảo toàn các nguồn sinh vật trong đại dương và Công ước về thềm lục địa. Các quốc gia thuộc LHQ có thể ký nhận các công ước này ở thời điểm giới hạn là 31-10-1958. Vì không phải là một thành viên của LHQ, tuyên bố của TQ là cần thiết để khẳng định những đòi hỏi của nước này về lãnh hải và vùng tiếp cận.

Điều đáng trách là các học giả VN không một người nào nhắc đến Nghị định thư nói về thể thức giải quyết tranh chấp cũng được Hội nghị LHQ thông qua cùng lúc với 4 công ước. Nghị định thư ghi rõ thể thức hòa giải trong các trường hợp có mâu thuẩn quyền lợi giữa các nước trong khi áp dụng các công ước. Dĩ nhiên ta thấy VN và TQ có mâu thuẩn về chủ quyền HS và TS. Tranh chấp này bắt đầu từ năm 1909, phía VNDCCH không thể nói là mình không biết.

Như thế, việc dựa vào các lý do « hoàn cảnh » này kia, tình đồng chí anh em, tình trạng « chiến tranh »… để giảm thiểu hiệu lực công hàm 1958 (theo Khoản 7 của bản Nguyên tắc Hướng dẫn) là điều hoàn toàn không thuyết phục.

« Hoàn cảnh » đúng, là bối cảnh Hội nghị LHQ 1958 về luật Biển, đòi hỏi VN phải có « ý kiến » về tuyên bố của TQ. Nguyên tắc một quốc gia VN duy nhứt  buộc các chính phủ ở hai vùng lãnh thổ đều có trách nhiệm như nhau về lãnh thổ. Một vùng lãnh thổ thuộc bên nào quản lý cũng thuộc về quốc gia VN duy nhứt. Thay vì phải ra tuyên bố bảo lưu chủ quyền của mình ở HS và TS, VNDCCH lại ra công hàm công nhận tuyên bố của TQ.

Vịn vào hoàn cảnh « tình trạng chiến tranh », nhưng bên gây chiến là phía VNDCCH. Chỉ cần bên này ngừng chiến thì công hàm 1958 sẽ không hiện hữu.

Vịn vào lý do « đồng chí anh em » lại càng không thuyết phục. Trên quan điểm quốc tế công pháp, tình « đồng chí anh em » chưa bao giờ được một bên tranh chấp vịn vào để được hưởng trường hợp giảm khinh.
Tác giả dẫn ra thí dụ sau đây, cho thấy một lời nói “qua lại” bình thường giữa hai viên chức quốc gia, xảy ra trong một buổi gặp gỡ không chính thức, nó cũng có giá trị ràng buộc pháp lý. Đó là trường hợp tuyên bố của Bộ trưởng bộ Ngoại giao Na Uy, ông Ihlen[21], về chủ quyền của Đan Mạch ở Groenland ngày 22-7-1919.

Trong dịp gặp gỡ giữa hai thủ tướng hai nước Na Uy và Đan Mạch. Ông bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đan Mạch nói rằng quốc gia Đan Mạch không quan tâm đến vùng lãnh thổ Spitzberg, chính phủ của ông sẽ không phản đối việc Na Uy hành sử chủ quyền ở vùng đất này. Ông nói tiếp rằng quốc gia Đan Mạch mong muốn được mở rộng thẩm quyền về kinh tế và chính trị trên tòan vùng Groenland. Ông hy vọng việc này không bị Hoa Kỳ cũng như Na Uy phản đối.

Trả lời, Thủ tướng Na Uy, ông Ihlen nói rằng : « the Norwegian Government would not make any difficulties in the settlement of this question ».

Tạm dịch: Chính phủ Na Uy sẽ không làm một khó khăn nào trong việc giải quyết vấn đề này.
Đến khi tranh chấp Groenlan giữa Na Uy và Đan Mạch được đưa ra Tòa Án Công lý Quốc tế (CIJ) phân giải thì « lời nói » của ông Ihlen được tòa nhìn nhận là một « tuyên bố đơn phương », có hiệu lực ràng buộc pháp lý. Tuyên bố này nổi tiếng, trở thành một trường hợp nghiên cứu cho Luật quốc tế, được đặt tên là « Tuyên bố Ihlen ».

Tuyên bố Ihlen có thể so sánh với trường hợp « lời nói » của ông Ung Văn Khiêm, thứ trưởng bộ Ngoại giao VNDCCH, nhân dịp gặp gỡ các viên chức ngoại giao TQ năm 1956. Ông Ung Văn Khiêm có tuyên bố với Li Zhimin, tham tán sứ quán Trung Quốc tại Việt Nam như sau : chiếu theo tài liệu VN thì HS và TS thuộc về TQ. Ông Lê Lộc, Chủ Tịch Châu Á Sự Vụ, nhân có mặt cũng nói vào : Theo sử liệu VN thì HS và TS thuộc TQ từ thời nhà Tống. Sự việc này tạp chí Beijing Review ngày 18 tháng Hai năm 1980 đã có đăng lại trong bài « Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc trên các đảo Tây Sa và Nam Sa ».


[2] Texte adopté par la Commission du droit international à sa cinquante-huitième session, en 2006, et soumis à l’Assemblée générale dans le cadre de son rapport sur les travaux de ladite session (A/61/10). Le rapport, qui contient également des commentaires sur le projet d’articles, sera reproduit dans l’Annuaire de la Commission du droit international, 2006, vol. II(2).
[3] Nguyễn Hồng Thao, « Le Vietnam et ses différends maritimes dans la mer de Biển Đông », Edition A. Pedone, ISBN 2-233-00451-5, trang 251.
[4] Xem ghi chú 2.
[5] Souveraineté sur Pedra Branca/Pulau Batu Puteh, Middle Rocks et South Ledge (Malaisie/Singapour),arrêt, C.I.J. Recueil 2008, p. 12. ISSN 0074-4441 ; ISBN 978-92-1-071046-6
[6] Nguồn : xem ghi chú 5.
[7] Monique Chemillier-Gendreau – La Souveraineté sur les Archipels Paracels et Spratleys – NXB Harmattan 1996, page 122-123.
[8] Xem ghi chú 3. Trang 250.
[9] Xem ghi chú 1.
[13] Xem ghi chú 7.
[14] Xem thêm bài « Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa : Thử bàn về tính liên tục và sự kế thừa giữa các « quốc gia » Việt Nam sau năm 1945 » của cùng tác giả. https://www.facebook.com/notes/nh%C3%A2n-tu%E1%BA%A5n-tr%C6%B0%C6%A1ng/v%E1%BA%A5n-%C4%91%E1%BB%81-ho%C3%A0ng-sa-v%C3%A0-tr%C6%B0%E1%BB%9Dng-sa-th%E1%BB%AD-b%C3%A0n-v%E1%BB%81-t%C3%ADnh-li%C3%AAn-t%E1%BB%A5c-v%C3%A0-s%E1%BB%B1-k%E1%BA%BF-th%E1%BB%ABa-gi%E1%BB%AFa-c%C3%A1c-qu%E1%BB%91/441347479238933
 [15] Đoạn trích dẫn này do ông Trúc Lê đưa lên trên Net.
[16] Xem ghi chú 3, trang 250.
[19] Xem ghi chú 9.
[21] Nguồn : Nations Unies  A/CN.4/557.  Commission du droit international. Cinquante-septième session. Huitième rapport sur les actes unilatéraux de l’État. Par  Mr Víctor Rodríguez Cedeño, Rapporteur spécial.