lundi 31 août 2015

Nhân ngày độc lập 2-9 thử bàn về « nền độc lập » của quốc gia VNDCCH và chủ quyền của Việt Nam tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nan giải của Việt Nam về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa.

Ngày độc lập của Việt Nam có là ngày 2-9-1945, ngày ông Hồ đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), hay bất kỳ một ngày nào khác sau 1975, việc này không làm thay đổi được thực tế cũng như lịch sử. Đó là đảng CSVN đã lãnh đạo toàn diện ở miền Bắc, sau đó trên toàn cả nước từ 30-4-1975 cho đến hôm nay. Nhưng trên phương diện pháp lý, Việt Nam độc lập ngày nào lại có tác động rất lớn lên danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Quan điểm chính thống của Việt Nam hiện nay ngày 2-9 là ngày độc lập, là ngày “xóa bỏ chính quyền nhà nước của thực dân và phong kiến”. Quốc gia tên gọi VNDCCH là quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền bắc, trung, nam. Thực thể Quốc gia Việt Nam, sau này đổi tên là Việt Nam Cộng Hòa, do thực dân và đế quốc (âm mưu chia cắt đất nước) dựng lên. Chính quyền VNCH là « ngụy », làm « tay sai » cho thực dân và đế quốc. Theo Lê Duẩn (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III), nhiệm vụ của đảng CSVN là “giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị tàn bạo của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai”. MTGPMN được đảng dựng lên để thực thi việc này.

Câu hỏi đặt ra, trong trường hợp này chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về nước nào ?

Nhà nước VNDCCH đoạn tuyệt với “nhà nước của thực dân và phong kiến”. VNDCCH không thừa kế bất kỳ một danh nghĩa nào từ nhà nước tiền nhiệm (thực dân và phong kiến). Lãnh thổ (miền Bắc) và quyền lực của VNDCCH có được là do chinh phục (chứ không do kế thừa).

VNDCCH cũng không kế thừa bất kỳ danh nghĩa nào từ VNCH. Lãnh thổ miền nam cũng là lãnh thổ chinh phục được chứ không phải là lãnh thổ kế thừa. Trên phương diện pháp lý, VNDCCH không thể kế thừa những danh nghĩa về chủ quyền của VNCH. Đơn giản vì người ta không thể kế thừa cái mà trước đó mà người ta đã phủ nhận.

Quốc gia tên gọi VNDCCH là một “quốc gia mới”, do ông Hồ dựng lên, lãnh thổ và quyền lực có được do chinh phục. Một số đảo ở TS do VN quản lý hiện nay là đến từ sự “chinh phục”, không phải do kế thừa của VNCH.

Mới đây, một số dữ kiện, tài liệu gồm văn kiện chính thức và một số bản đồ của VNDCCH đã được Trung Quốc công bố ở diễn đàn LHQ. Theo đó nhà nước VNDCCH của ông Hồ đã nhìn nhận HS và TS thuộc TQ.

Như vậy, nếu đứng trên quan điểm chính thống của VN hiện nay, chủ quyền HS và TS là thuộc về TQ. Nhà nước CHXHCNVN hiện nay là nhà nước “kế tục” VNDCCH. Trên quan điểm công pháp quốc tế, nhà nước này có nghĩa vụ thi hành những cam kết về lãnh thổ của nhà nước tiền nhiệm.

Tuy vậy, lập trường của nhà nước CHXHCNVN hiện nay là HS và TS thuộc chủ quyền của VN. Các viên chức nhà nước VN hiện nay cố gắng phản biện lý lẽ của TQ bằng cách dựa vào hồ sơ chủ quyền HS và TS do VNCH lập nên.

Mà việc này chỉ có hiệu quả pháp lý nếu quan niệm chính thống về ngày “độc lập 2-9” cũng như cách nhìn lịch sử về thực thể VNCH thay đổi.

Các việc này thực hiện được hay không tùy thuộc lãnh đạo VN hiện nay biết đặt quyền lợi của đất nước lên trên hay không.  

Ngày 2-9-1945 không phải là ngày “độc lập”.

Theo định nghĩa thông thường, « độc lập » của một quốc gia là tình trạng quốc gia không chịu ảnh hưởng của bất kỳ một quyền lực nào đến từ bên ngoài. Thời kỳ sau Thế chiến thứ II, thuật ngữ « độc lập » luôn đi đôi với « chủ quyền ». Một quốc gia sau khi thoát khỏi ách thuộc địa thường được gọi là « quốc gia độc lập và có chủ quyền – Etat indépendant et souverain ». Ý nghĩa của « chủ quyền », một cách đơn giản, có thể hiểu như là quyền lực tối thuợng, chủ tể (thẩm quyền của mọi thẩm quyền) trong quốc gia.

Với ý nghĩa như vậy thì ngày 2-9-1945 không thể là ngày độc lập của quốc gia Việt Nam.

Một tuần lễ sau ngày ông Hồ đọc « tuyên ngôn độc lập », ngày 9-9 quân đội của Trung Hoa đã có mặt tại Hà Nội. Quyền lực của VN từ thời điểm này thuộc về lực lượng quân đội TH (ở miền bắc) và quân Anh (ở miền Nam).

Không nắm được “quyền chủ tể”, VNDCCH của ông Hồ không phải là quốc gia “có chủ quyền”.
Sự hiện hữu của thực thể « quốc gia VNDCCN » cũng bị đe dọa, vì nó  tùy thuộc vào quyết định của quân Trung Hoa. Nền “độc lập” của VNDCCH vì vậy cũng không có thật.

Quốc gia VNDCCH cũng không được một quốc gia nào công nhận.

Một khuyết điểm lớn khác, đe dọa tính chính thống của ông Hồ và những người cộng tác sau này. Đó là việc ngày 6 tháng 3 năm 1946, ông Hồ ký với Pháp một hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ». Theo đó Pháp nhìn nhận chính phủ của ông Hồ, với VN là một nước « tự do » nằm trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp.

Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam “độc lập” mà chỉ nói một nước « Việt Nam tự do » thuộc « Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ». Tức ông Hồ chấp nhận « quốc gia » Việt Nam, không bao gồm Nam Kỳ mà thực chất là một « tiểu bang » hay « xứ », nằm trong Liên bang Đông Dương, có qui chế pháp lý tương đương với xứ Bắc Kỳ.

Qua những chi tiết này ta thấy ngày 2-9 không thể là ngày “độc lập” của VN.

Và nó là một điều may cho dân tộc VN.

Chấp nhận thực tế này, những văn bản, tài liệu của VNDCCH nhìn nhận chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TQ là không có giá trị pháp lý.

Vậy VN độc lập ngày nào ?

Ngày nào cũng được, nếu việc này giúp cho VN khẳng định được chủ quyền tại HS và TS.

Theo công pháp quốc tế, chủ quyền của quốc gia tại một vùng lãnh thổ phải thể hiện một cách liên tục, bất kể những thay đổi về thể chế chính trị.

Chiếu theo hòa ước 1884, nước Pháp đã cam kết “bảo vệ lãnh thổ” của nước An Nam, thay mặt triều đình nhà Nguyễn về các phương diện ngoại giao và nội chính.

Theo tình thần hòa ước này, từ năm 1925, nước Pháp đã long trọng thay mặt nhà Nguyễn tuyên bố An Nam có chủ quyền lịch sử tại quần đảo Hoàng Sa, sau đó sáp nhập quần đảo này vào tỉnh Thừa Thiên. Nhà nước bảo hộ cũng tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường Sa vào VN năm 1933 dưới danh nghĩa “lãnh thổ vô chủ”.

Hiệp định Genève 1954 ký kết, hai quần đảo HS và TS, ở về phía nam vĩ tuyến 17, do VNCH quản lý.

Điều này cho thấy là tại HS và TS, từ thời nhà Nguyễn, chuyển sang thời bảo hộ Pháp, cho đến năm 1975, thẩm quyền quốc gia Việt Nam về lãnh thổ luôn luôn được thể hiện một cách liên tục trên các vùng lãnh thổ này.

Sự liên tục quốc gia đã thể hiện.

Vấn đề chỉ đặt ra sau 30-4-1975. Chính quyền VNCH đã bị sụp đổ. Chủ quyền HS và TS có được được Chính phủ lâm thời MTGPMN kế thừa hay không ?

Sự kế thừa một quốc gia là thay thế quốc gia đó trong trách nhiệm những quan hệ quốc tế về lãnh thổ.
Vấn đề kế thừa VNCH sẽ không đặt ra, vì một nước VN thống nhứt sau đó, Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa VN là nhà nước “tiếp nối” VNDCCH. 

Mặt khác, CHXHCNVN do VNDCCH và CPLTCHMNVN kết thành. Nhưng nhân sự lãnh đạo thực thể MTGPMN là một bộ phận của đảng CSVN. Nhân sự lãnh đạo hai bên VNDCCH và MTGPMN đều nằm trong đảng. Hai bên vì vậy cũng là một.

CHXHCNVN hôm nay không thể cùng lúc kế thừa hai lập trường đối kháng.

Ngày độc lập 2-9 đã đưa tới sự bế tắc về pháp lý (CHXHCNVN hôm nay có nghĩa vụ thực thi những cam kết của nhà nước tiền nhiệm VNDCCH) như phần trên đã viết. Trở ngại lớn lao vừa trình bày, là sự gián đoạn về chủ quyền của VN tại HS và TS. CHXHCNVN không thể “kế thừa” danh nghĩa chủ quyền HS và TS từ VNCH hay từ MTGPMN.

Trong khi đó trên thực tế, đã chứng minh, VNDCCH không phải là một quốc gia độc lập có chủ quyền, ít nhứt cho đến khi Hiệp định Genève được ký kết (20-7-1954).

VNDCCH cũng không phải là quốc gia Việt Nam duy nhứt, thống nhứt ba miền. Nội dung hiệp định Genève qui định VNDCCH chỉ mà “một phần” của quốc gia Việt Nam mà thôi. Điều này khẳng định lại theo nội dung Hiệp định Paris 1973. 

Việc thống nhứt đất nước là vấn đề "nội bộ" của quốc gia Việt Nam.

Dựa trên thực tế này tất cả những tuyên bố, những hành vi của VNDCCH (nhìn nhận HS và TS thuộc TQ) là không có giá trị pháp lý. Đơn giản vì nó đi ngược là nội dung các hiệp ước quốc tế nền tảng 1954 và 1973 về "toàn vẹn lãnh thổ".

Vì vậy, vấn đề chủ quyền HS và TS tùy thuộc vào quyết tâm của lãnh đạo đảng CSVN. Những người này có đặt quyền lợi đất nước lên trên hay không ? Có dám nhìn sự thật lịch sử hay không ?

Nếu dám nhìn sự thật, ngày độc lập của VN có thể là ngày 30-4-1975.

Ngày này có đủ các yếu tố để trở thành ngày độc lập: thẩm quyền quốc gia bao trùm trên toàn lãnh thổ. Thẩm quyền này “độc quyền” và “tối thuợng”. Tuy nhiên, lúc đó cộng đồng thế giới vẫn chưa nhìn nhận VN là một nước “độc lập”.

Ngày “hiệp thuơng thống nhất đất nước” 21-11-1975 (hoặc ngày 3-7-1976 khai sinh nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam) cũng đều có thể là ngày độc lập thật sự. Từ những ngày này, quốc tế nhìn nhận VN là một nước độc lập, thống nhất và có chủ quyền toàn vẹn.


Cho dầu ngày nào, đảng CSVN cũng lãnh đạo VN một cách toàn diện không chia sẻ. Vấn đề là ngày nào thì chủ quyền của VN tại HS và TS được khẳng định và ngày nào thì VN nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS.

dimanche 23 août 2015

Biên giới Kampuchia : Rắc rối về bản đồ biên giới hiện trạng và mâu thuẩn hiến pháp.

Thủ tướng Hunsen đã thắng các đối thủ chính trị của ông về vấn đề biên giới nhưng chỉ thắng hiệp đầu. Rắc rối đến từ nhiều phương diện mà cách nhận thức về bản đồ mới chỉ là một. Màn kịch chính trị của Kampuchia chưa thể hạn màn một cách đơn giản sau vụ bắt Thuợng nhị sĩ Hong Sok Hour.

1/ Rắc rối về bản đồ :

Theo yêu cầu của tủ tướng Hunsen, LHQ vừa cho nhà nước Kampuchia mượn bộ bản đồ biên giới Việt-Miên gồm 18 mảnh. Theo tin tức đăng tải, bản đồ của LHQ là bản đồ 1/50.000 vẽ theo cách chiếu UTM.

Vấn đề Hunsen ngày 7 tháng 6 đã viết thư lên Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon để « mượn bộ bản đồ gốc 1/100.000 mà chính quyền thực dân vẽ từ những năm 1933-1955, sau đó được quốc vương Sihanouk gởi lưu chiểu lên LHQ năm 1964 ».

Những ngày sau đó Hunsen cũng gởi thư đến các cường quốc Mỹ, Pháp, Anh… xin được giúp đỡ.
Có thể khẳng định rằng 18 mảnh bản đồ của LHQ không phải là bộ bản đồ do Sở Địa dư Đông dương (SGI) xuất bản (trước năm 1954). Các bản đồ SGI xuất bản vẽ theo cách chiếu Bonne với tỉ lệ 1/100.000.

18 tấm bản đồ (của LHQ) vì vậy không phải là bản đồ mà Sihanouk đã nộp lên LHQ năn 1964.

Vậy 18 tám tấm bản đồ 1/50.000 UTM của LHQ cho Hunsen mượn có xuất xứ từ đâu ? Còn bộ bản đồ mà Sihanouk gởi lưu chiểu tại sao LHQ không cho Hunsen mượn ?

Các nhận thức về luật và tập quán quốc tế sau đây có thể là một cách giải thích.

Theo các nguyên tắc của công pháp quốc tế (về những vấn đề liên quan đến đường biên giới), đường biên giới giữa hai nước chỉ có giá trị pháp lý khi nó được chính phủ hai nước nhìn nhận. Việc nhìn nhận được thể hiện bằng các kết ước với những bản đồ đính kèm. Theo tập quán quốc tế, văn bản có giá trị cao hơn bản đồ. Tức là, nếu có sự mâu thuẩn giữa biên giới trên thực địa và bản đồ thì văn bản có giá trị cao hơn, ngoại trừ việc trong văn bản có điều khoản xác định ngược lại.

Về hiệu lực các kết ước, các kết ước mới có giá trị thay thế các kết ước cũ.

Đường biên giới Việt-Miên theo các hiệp ước 1985 và 2005 được gọi là « đường biên giới hiện trạng » và đường biên giới theo bản đồ SGI 1/100.00 gọi là « đường biên giới lịch sử ».

Vì vậy bộ bản đồ 1/50.000 UTM của LHQ chỉ có thể là bộ bản đồ đính kèm các hiệp ước về biên giới năm 1985 và 2005 giữa VN và Kampuchia.

Bản đồ 1/100.000 mà Sihanouk gởi lưu chiểu năm 1964 không còn hiệu lực pháp lý vì hai lý do : 1/ nó đã được thay thế bằng bộ bản đồ đính kém các hiệp ước 1985 và 2005. 2/ bản đồ này được phía VNDCCH đơn phương nhìn nhận ngày 8 tháng 6 năm 1967 mà việc nhìn nhận này không có giá trị pháp lý. VNDCCH không có thẩm quyền về lãnh thổ ở một vùng lãnh thổ do VNCH quản lý.

Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon không thể cho ông Hunsen mượn một bộ bản đồ đã không còn giá trị pháp lý.

Dầu vậy, phía đối thủ chính trị của TT Hunsen có thể phản đối bộ bản đồ 1/50.000 của LHQ cho mượn ở hai lý do : 1/ Bộ bản đồ này không phải là bản đồ 1/100.000 mà Sihanouk đã gởi lưu chiểu năm 1964 mà bản đồ này đã được VNDCCH nhìn nhận. 2/ Bộ bản của LHQ cho mượn không phải là bản đồ đã được định nghĩa theo điều 2 của Hiến pháp hiện hành của Kampuchia.

2/ Mâu thuẩn hiến pháp :

Điều 2 Hiến pháp 1993 của Kampuchia, phần nói về « toàn vẹn lãnh thổ », biên giới Kampuchia được xác định :

« (Lãnh thổ Kampuchia) thể hiện trên bản đồ 1/100.000, vẽ năm 1955, được sự nhìn nhận của cộng đồng quốc tế từ năm 1963 đến 1969 ».

Tức là nội dung các hiệp ước phân định biên giới VN và Kampuchia 1985 và 2005 mâu thuẩn hiến pháp 1993 của Kampuchia.

Vấn đề là quốc vương Sihamoni đã phê chuẩn các hiệp ước này.

Theo tập quán quốc tế, các kết ước quốc tế có giá trị cao hơn luật quốc gia.

Các hiệp ước phân định biên giới Việt-Miên 1985 và 2005 là các kết ước « quốc tế ». Vì vậy hiến pháp Kampuchia cần phải tu chính ở điều 2.

Một số điều cần nói thêm về đường biên giới của Kampuchia qui định theo Hiến pháp.

Đó là biên giới này không phù hợp với đường biên giới thể hiện theo bộ bản đồ  1/100.000 vẽ theo cách chiếu Bonne do Sở địa dư Đông dương ấn hành trước năm 1954.

Đường biên giới được Sihanouk gởi lưu chiểu ở LHQ (và được điều 2 hiến pháp định nghĩa) là đường biên giới đã được thay đổi theo ý kiến của tiến sĩ Sarin Chhak, nguyên bộ trưởng Ngoại giao Cam bốt năm 1963. Sarin Chhak có hai bằng tiến sĩ : 1/ tiến sĩ khoa học chính trị qua luận án 1964 về biên giới Việt-Miên. 2/ tiến sĩ luật qua luận án biên giới Thái-Miên năm 1966. Theo ông này biên giới Việt-Miên có 5 vùng phải sửa lại.

3/ Kết luận :

Phe đối lập với thủ tướng Hunsen chưa chắc là bí lối sau khi Thuợng nhị sĩ Hong Sok Hour bị bắt. Những mâu thuẩn về biên giới mà phe đối lập có thể lợi dụng để lật ngược lại tình thế là :

VNDCCH đã nhìn nhận đường biên giới theo bản đồ đã được Sihanouk lưu chiểu LHQ năm 1964. Tại sao Hunsen không phân định biên giới theo bản đồ này (đúng như nội dung hiến pháp Kampuchia 1993 và trước đó) mà lại phân định theo bản đồ khác ?

Phe đối lập cũng có thể vịn vào sự mâu thuẩn của hiến pháp để đặt lại vấn đề phân định biên giới. Khó khăn là các hiệp ước biên giới đã được quốc vương Sihamoni phê chuẩn. Muốn đặt lại là không dễ.

Cách này hay cách khác, phe đối lập có thể làm mất uy tín của TT Hunsen nhưng không thể nào vẽ lại đường biên giới.

Biên giới Việt Nam và Kampuchia hiện nay thể hiện đường biên giới theo nguyên tắc luật quốc tế uti possidetis, tức là thể hiện hoàn toàn đúng theo bộ bản đồ SGI 1/100.000 vẽ trước năm 1954 theo cách chiếu Bonne, đối chiếu qua bộ bản đồ quân sự Mỹ 1/50.000 theo cách chiếu UTM hiện đang lưu trữ tại các đại học Mỹ.


mardi 11 août 2015

Nhân kỹ niệm 70 năm kết thúc Thế chiến thứ II : thử bàn về ý nghĩa cuộc « Cách mạng tháng tám » và thực chất nền « độc lập » của quốc gia mang tên VNDCCH.

Theo sử liệu chính thức VN thì cuộc « cách mạng tháng tám » được khởi động từ 14-8-1945, sau quyết định của đảng CS Đông Dương tại cuộc họp Tân Trào. Cuộc « cách mạng » chấm dứt ngày 30 tháng 8 sau khi vua Bảo Đại thoái vị giao ấn kiếm cho đại diện CS. Cũng theo sử liệu « chính thống », cuộc cách mạng xảy ra « dưới sự lãnh đạo của đảng, 20 triệu nhân dân ta đã nhất tề vùng dậy khởi nghĩa dành lại chính quyền… ». Ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Cuộc « cách mạng » như vậy được diễn ra trong bối cảnh miền Bắc vừa thoát khỏi nạn đói kinh hoàng với 2 triệu người chết trong khi Đồng Minh vừa kết thúc cuộc Thế giới Đại chiến thứ II.

Ý nghĩa của từ « cách mạng » là phá bỏ cái cũ và xây dựng cái mới. Chủ trương « cách mạng » của CSVN là bài phong, đả thực, chống phát xít giành lại độc lập cho đất nước. Việc « giành lại chính quyền » được các sử gia VN ví như là « cuộc chạy đua nước rút với quân đội Đồng Minh ». Các bản hiến pháp của VNDCCH và sau này là CHXHCNVN, không ngoại lệ, đều ghi nhận sự thành công của cuộc cách mạng (tháng Tám) là nền tảng khai sinh ra nước VNDCCH.

Nhưng vấn đề không đơn thuần như vậy.

Thế chiến thứ II tại Châu Á kết thúc sau khi Nhật tuyên bố đầu hàng ngày 15-8-1945. Theo một số qui định của phe thắng trận, Nhật phải : 1/ từ bỏ chủ quyền tại các vùng lãnh thổ đã chiếm đóng trước đó. 2/ Các chính quyền do Nhật dựng lên ở các nơi này thì không được nhìn nhận. 3/ Trong thời gian chuyển tiếp, quân đội Nhật có trách nhiệm giữ trật tự trong lúc chờ đợi quân Đồng Minh đến giải giới.

Những vùng lãnh thổ Nhật chiếm đóng này bao gồm Việt Nam. Câu hỏi đặt ra là số phận những vùng lãnh thổ mà Nhật chiếm trước đó (như VN) thì được Đồng minh quyết định ra sao ?

Ta được biết một số vùng lãnh thổ bị Nhật (hay Đức, Ý) chiếm đóng đã được quyết định số phận qua các Hội nghị Yalta và Cairo trong lúc chiến tranh (như Mãn Châu, Đài Loan, Đại Hàn…). Một số được định đoạt (hay tái xác định) sau chiến tranh theo Hòa ước San Francisco 1951.

Riêng VN (nói chung là Đông Dương), không thấy nhắc đến vấn đề « trả độc lập » (như trường hợp Đại Hàn), mặc dầu việc chống chế độ thực dân là chủ trương của Hoa Kỳ. Lực lượng Đồng minh ở Châu Á chỉ nói đến việc giải giới quân Nhật. Việc giải giới được lực lượng này qui định : Quân đội Anh quốc phụ trách vùng phía nam vĩ tuyến 16 và quân đội Trung Hoa phụ trách phía bắc vĩ tuyến 16.

Theo qui định này, ngày 9-9-1945 quân của Trung Hoa do Tiêu Văn và Lư Hán dẫn đầu có mặt tại Hà Nội. Tương tự, liên quân Anh-Pháp cũng có mặt ở miền Nam.

Ta thấy không hề có việc lực lượng cách mạng « chạy đua giành chính quyền » với quân đội Đồng Minh hay việc « 20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy giành lại chính quyền » như các sử gia đã viết.
Theo sử liệu chính thống, « lực lượng cách mạng » đã « đánh » Nhật « giành chính quyền » ở một số tỉnh thành (ngoài Bắc). Điều này không đúng. Trên thực tế không có « đánh đấm » gì cả. Cuộc « cách mạng » xảy ra sau ngày 15-8, tức lúc quân Nhật đã có lệnh bỏ súng đầu hàng. Thẩm quyền của Nhật tại VN đã chuyển sang lực lượng Đồng minh sau khi nước này nhìn nhận các điều kiện Đồng Minh áp đặt  để đầu hàng. Trong tay quân Nhật (ở VN) đâu còn cái (chính quyền) nào để « cách mạng » cướp (hay giành) ?

Mặt khác, khi Tiêu Văn và Lư Hán dẫn quân qua VN theo như qui định của phe thắng trận, dọc đường lực lượng này tước « quyền hành » của « chính quyền cách mạng » và trao cho phe thân Trung Hoa.

Cái gọi là « cuộc chạy đua giành chính quyền » với quân Đồng minh vì vậy không hề có. Thực chất chỉ là Việt Minh lợi dụng khoảng trống quyền lực sau khi Nhật đầu hàng để nắm lấy chính quyền, hy vọng đặt Đồng minh vào sự đã rồi, mà điều này rõ ràng thất bại.   

Cũng không hề có việc « lực lượng cách mạng » cướp chính quyền từ tay Bảo Đại (ngày 30-8).
Quốc gia mang tên là « Đế Quốc Việt Nam » do Bảo Đại lãnh đạo ra đời sau khi Nhật đảo chánh Pháp ngày 10 tháng 3 năm 1945. Theo qui định của lực lượng Đồng minh, phía thắng trận, tất cả những chính quyền do Nhật dựng lên (ở các vùng lãnh thổ chiếm đóng) đều không được nhìn nhận.

Ở VN (như ở Mãn Châu) quyền hành của chính quyền Bảo Đại là không có thật. Quân đội không có. Ngân sách không có. Ngoại giao cũng không. Tất cả đều phải thông qua Nhật. Ngay cả việc cấp bách là cứu trợ nạn đói ở miền Bắc, nguyên nhân chính (làm cho 2 triệu người chết) là vấn đề giao thông. Lúa gạo miền Nam dư thừa đến mức đem đốt chạy nhà máy điện mà chính phủ Trần Trọng Kim không thể đem ra miền Bắc. Việc Mỹ dội bom đường xá chỉ là một yếu tố phụ. Ngoài biển tàu bè vẫn chạy được nhưng chính phủ Trần Trọng Kim không có một phương tiện nào trong khi Nhật từ chối giúp đỡ. Tức là Nhật dựng lên « quốc gia » này chỉ để làm vì. Ông Bảo Đại hay chính phủ TT Kim không có bất kỳ thẩm quyền nào về lãnh thổ cũng như đối với người dân của mình.

Vậy thì « lực lượng cách mạng » có thể « cướp » cái gì ở « quốc gia » của ông Bảo Đại ? Người ta đâu thể cướp cái mà người khác không có ?

Còn việc « 20 triệu nhân dân ta nhất tề vùng dậy » cũng chỉ là điều tưởng tượng. Miền Bắc vừa thoát nạn đói vào tháng 5, với 2 triệu người chết. Ba tháng sau người dân có thể nổi dậy để giành cái ăn. Nói 20 triệu người « nhất tề vùng dậy » là điều hoang đường, không thuyết phục được ai hết.

Thực chất của « cách mạng tháng tám » là vậy. Còn « tuyên ngôn độc lập » ngày 2-9 của ông Hồ có giá trị gì không ?

Về thời điểm, ngày 2 tháng 9 được ông Hồ lựa chọn không hề do tình cờ mà là kết quả tính toán sâu xa. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 cũng là ngày đế quốc Nhật ký văn kiện đầu hàng Đồng Minh trên chiếc Thiết giáp hạm USS Missouri của Mỹ đang neo trong vịnh Tokyo.

Về nội dung, bản Tuyên ngôn của ông Hồ dẫn nhiều ý tứ từ bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ.
Từ hai chi tiết này, ta có thể cho rằng ông Hồ đã được sự gợi ý của các chuyên viên OSS, tiền thân của CIA Mỹ, lúc đó đang hoạt động cùng với VM trên vùng biên giới Việt-Trung.  

Tuyên ngôn độc lập của ông Hồ, trên phương diện pháp lý cũng như trên thực tế, không thể hiện được một quốc gia Việt Nam độc lập.

Ta sẽ biết rõ về nền « độc lập » của ông Hồ và đồng chí của ông chỉ vài tháng sau, lúc Hiệp ước Sơ Bộ 6-3-1946 được ký kết.

Về Hiệp ước Sơ bộ 6-3-1946, 7 thập niên trôi qua nhưng vẫn còn nhiều điểm tối chung quanh việc hình thành hiệp ước này.

Bối cảnh lịch sử lúc đó là khi quân Anh nhận trách nhiệm giải giới quân Nhật ở phía nam vĩ tuyến 16, thì sau đó lại nhượng toàn quyền quản lý của mình cho Pháp. Miền Bắc, Pháp cũng thuyết phục được Tưởng Giới Thạch chấp nhận trao đổi quyền quản lý miền Bắc với quyền lợi về kinh tế.

Vì sao Pháp thuyết phục được Anh và Trung Hoa để thay thế hai lực lượng này ddem quân vào lại VN ?

Nguyên nhân vì cục diện thế giới thay đổi. « Biên giới Yalta » thành hình, còn gọi là « bức màn sắt », phân chia thế giới hai vùng ý thức hệ chính trị « tư bản và cộng sản ». Phe tư bản do Hoa Kỳ cầm đầu cần đồng minh là Pháp ở Tây Âu. Vì thế Pháp dễ dàng thuyết phục được Anh (và trong chừng mực Hoa Kỳ) trả Nam kỳ lại cho mình vì lãnh thổ này là nhượng địa của VN cho Pháp theo các hòa ước 1862 và 1864. Trong lúc phe họ Tưởng đang bị bối rối do việc Liên Xô chần chờ không chịu rút quân khỏi Mãn Châu. Lại còn phải đối phó với quân cộng sản của Mao Trạch Đông đang đe doạ mạn phía bắc. Tưởng Giới Thạch cần rút quân đội hiện đang đóng ở VN để tập trung lực lượng chuẩn bị cho cuộc nội chiến « quốc-cộng » lần thứ hai. Vì vậy họ Tưởng dễ dàng chấp thuận đề nghị trao đổi của Pháp.

Vấn đề đặt ra, tại sao lại hiện hữu « hiệp ước sơ bộ 6-3-1946 » và các bên ký kết lại là ông Hồ (đại diện VNDCCH) và Pháp ?

Trên danh nghĩa, sau khi thỏa thuận với Trung Hoa, Pháp không cần phải ký hiệp định này để đổ quân ra bắc. Người chủ thực sự ở miền Bắc là quân Trung Hoa chứ không phải là lực lượng của ông Hồ. Lực lượng của ông Hồ mặc dầu chiếm được một số vũ khí của quân Nhật nhưng lúc đó thực lực còn rất mỏng. Mặt khác, ở miền Bắc còn có các đảng phái VN thân Trung Hoa. Các đảng phái quốc gia này chủ trương vừa chống Pháp thực dân vừa chống cộng sản. Họ theo chân các đạo quân của TH để về nước. Điều ghi nhận là các lực lượng này chủ trương chống Pháp đến cùng, dĩ nhiên chống sự trở lại của Pháp.

Sự hiện hữu của Hiệp ước Sơ bộ có thể được giải thích trên một số yếu tố như sau : trước hết là Pháp và phe ông Hồ có chung một kẻ thù cần tiêu diệt là các đảng phái quốc gia. Cả hai bên đều có lợi khi ký kết. Pháp có lợi khi ký với phe cộng sản vì đã nắm được con bài Võ Nguyên Giáp. (Ông Giáp và ông Hồ ủng hộ sự trở lại của Pháp). Ông Hồ cũng có lợi vì ông được nhìn nhận là người lãnh đạo chính thống. Phe quốc gia mặc dầu được Trung Hoa chống lưng vì vậy bị gạt ra ngoài, trở thành con mồi cho cả hai thế lực thực dân và cộng sản truy diệt.

Thứ hai, phe Trung Hoa, dĩ nhiên biết rõ tẩy ông Hồ (tức Hồ Quang), là thiếu tá Đệ bát lộ quân của Mao, nhưng hai ông tướng Tiêu Văn và Lư Hán đã nhận vàng hối lộ của ông Hồ (đến từ tuần lễ vàng) nên cũng chấp nhận ủng hộ ông Hồ. Cuối cùng là lý do chiến lược. Nội dung Hiệp ước giới hạn lực lượng quân đội của Pháp. Trung Hoa muốn gài một trái bom nổ chậm không thể gỡ cho Pháp ở miền Bắc để Pháp vĩnh viễn không thể dòm ngó vùng Hoa Nam nữa.

Hiệp ước sơ bộ ký kết, điều uớc quan trọng (mà cả hai bên chờ đợi) là Pháp nhìn nhận chính phủ VNDCCH của ông Hồ như là một « état libre – tiểu bang tự do » thuộc Liên bang Đông dương. Còn việc thống nhất « ba kỳ », Pháp hứa sẽ nhìn nhận kết quả qua cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức sau này.

Từ kết quả hiệp ước ta thấy nền « độc lập » của VNDCCH không có thực chất.

Ông Hồ và Pháp nhìn nhận rằng VNDCCH là một « tiểu bang tự do – état libre » trong liên bang Đông dương. Một số sử gia VN nhập nhằng chữ « Etat » ở đây và xem như là « quốc gia ». Thực tế không phải vậy. Chữ « état » nằm trong một liên bang có nghĩa là « tiểu bang » chứ không phải là « quốc gia ». Các « état - tiểu bang », như California, của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Các tiểu bang này cũng có quốc hội, ngân sách, chính quyền… riêng nhưng « chủ quyền » (tức quyền chủ tể) của nó lại thuộc về Liên Bang. Tức là những quyết định manh tính « tối cao », như về quân sự, ngoại giao… thuộc về chính quyền liên bang.

VNDCCH chỉ là một vùng lãnh thổ, giới hạn ở Bắc Kỳ, thẩm quyền của ông Hồ thấp hơn Toàn Quyền Pháp. VNDCCH không phải là một « quốc gia độc lập », tức quốc gia có chủ quyền.

Điều may mắn là cả hai bên đều xem hiệp ước này chỉ là « giai đoạn », không có ý muốn tôn trọng. Ông Hồ ký kiệp ước vì muốn Trung Hoa rút đi. Còn Pháp ký hiệp ước vì muốn trở lại miền Bắc. Phía thiệt hại nhiều nhứt là các đảng phái quốc gia. Theo một số dữ kiện từ văn khố Pháp, ông Giáp có quan hệ với mật thám Pháp. Cả hai bên nhờ vả trao đổi tin tức cho nhau để tiêu diệt phe quốc gia chống đối.

Một số sử gia cũng biện hộ « nền độc lập » của VNDCCH bằng cách đề cao tuyên bố độc lập của Bảo Đại ngày 12-3-1945. Nền độc lập của VNDCCH kế thừa nền độc lập của quốc gia « Đế Quốc VN » của Bảo Đại. Trên công pháp quốc tế lý lẽ này không thuyết phục. Như đã nói trên quốc gia « Đế quốc VN » của Bảo Đại không có thực quyền. Mặt khác, theo quyết định của phe Đồng minh thắng trận thì Nhật phải từ bỏ chủ quyền ở các vùng lãnh thổ đã chiếm trước chiến tranh đồng thời các chính quyền ở các nơi đây thì không được nhìn nhận. Quốc gia « Đế quốc VN » nằm trong tình trạng này.

Nền độc lập của Đế quốc VN không nước nào nhìn nhận. « Quốc gia » VNDCCH làm thế nào kế thừa cái mà không được ai nhìn nhận ?

Dầu vậy đó là điều may cho VN. Bởi vì, nếu « Đế quốc VN » của ông Bảo Đại là một quốc gia độc lập có chủ quyền thì VN sẽ bị Đồng minh xếp vào loại quốc gia « hợp tác với phát xít Nhật ». Lúc đó VN sẽ bị đối xử như là quốc gia bại trận. Hệ quả thế nào không ai có thể lường được.


Nền « độc lập » của VNDCCH chỉ có thật từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Hiệp định Genève 1954 ký kết chia đôi đất nước thành hai vùng lãnh thổ : VNDCCH và Quốc gia VN (sau này là VNCH). Nhưng nền độc lập này không hoàn hảo vì theo qui định của hiệp định Genève 1954, VNDCCH chỉ là một phần của quốc gia VN. VNDCCH trở thành một « quốc gia chưa hoàn tất ».